12/11/1942 - Trận hải chiến Guadalcanal bắt đầu, thay đổi toàn bộ cục diện mặt trận Thái Bình Dương

    Nova,  

    Chỉ đến khi kết thúc chiến tranh thì Hoa Kỳ mới nhận ra rằng mình đã bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều so với Nhật Bản và đã thua về mặt chiến thuật nặng chưa từng thấy khi đó.

    Chiến dịch Guadalcanal, tên mã của Đồng Minh là Chiến dịch Watchtower, diễn ra từ ngày 7/8/1942 đến ngày 9/2/1943 trên đảo Guadalcanal và khu vực phụ cận tại quần đảo Solomon của Mặt trận Thái Bình Dương trong Chiến tranh Thế giới thứ hai. Việc tranh chấp diễn ra ác liệt cả trên bộ, trên biển và trên không; chiến dịch này là cuộc tấn công lớn đầu tiên của phe Đồng Minh chống lại Đế quốc Nhật Bản sau một thời gian dài phòng thủ. ĐIểm nhất của chiến dịch này chính là trận hải chiến Guadalcanal - một trong những trận đánh ác liệt nhất trong chiến tranh thế giới thứ hai - diễn ra từ ngày 12/11/1942 đến ngày 15/11/1942. Trận hải chiến bao gồm nhiều cuộc không kích và đấu pháo giữa các chiến hạm trong suốt bốn ngày, hầu hết ở gần Guadalcanal và đều liên quan đến nỗ lực của Nhật Bản đổ quân lên đảo. Trận đánh này có điểm nổi bật là hai đô đốc Hải quân Hoa Kỳ duy nhất tử trận trong suốt cuộc chiến tranh.

     Mô tả trận hải chiến Guadalcanal trong đêm.

    Mô tả trận hải chiến Guadalcanal trong đêm.

    Tất cả bắt đầu vào ngày 8/8/1942, 11.000 lính của lực lượng quân Đồng Minh đã kiểm soát được Tulagi, các đảo lân cận, và một sân bay đang được xây dựng của Nhật Bản tại Lunga Point sau này được gọi là Henderson. Để bảo vệ sân bay, lính thủy đánh bộ Hoa Kỳ đã thiết lập một vành đai phòng thủ quanh Lunga Point. Quân tiếp viện được chở đến hai tháng sau đó tăng số lính của Hoa Kỳ tại Lunga Point lên 20.000 người. Để đối phó, Bộ Tổng chỉ huy của Nhật Bản đã giao nhiệm vụ cho Tập đoàn quân 17, một đơn vị cỡ quân đoàn đang đóng tại Rabaul dưới sự chỉ huy của trung tướng Hyakutake Harukichi, đánh chiếm lại Guadalcanal. Các đơn vị của Tập đoàn quân 17 bắt đầu di chuyển tới Guadalcanal vào ngày 19/8 để đánh bật lực lượng Đồng Minh ra khỏi đảo.

    Quân đội Nhật Bản lên kế hoạch cho cuộc tấn công vào Guadalcanal khác vào tháng 11/1942, nhưng phải có quân tiếp viện trước khi kế hoạch có thể được thực hiện. Quân đội yêu cầu Yamamoto trợ giúp gửi tiếp viện đến đảo và hỗ trợ họ trong cuộc tấn công vào lực lượng Đồng Minh đang cố thủ sân bay Henderson. Để hỗ trợ cho việc tiếp viện, Yamamoto tập hợp 11 tàu vận tải cỡ lớn để chuyển 7.000 quân của sư đoàn bộ binh số 38 cùng đạn dược, lương thực và các trang thiết bị hạng nặng Rabaul đến Guadalcanal. Ông cũng đã cử các tàu chiến từ Truk gia nhập hạm hạm đội ngày 09/11 trong đó có hai thiết giáp hạm. Hai thiết giáp hạm Hiei và Kirishima được trang bị đạn nổ sát thương (đạn nổ mảnh) dùng để pháo kích vào Henderson trong đêm ngày 12/11 và 13/11, nhằm phá hủy sân bay cùng phi đội máy bay đang đóng ở đó, tạo điều kiện cho các tàu vận tải lớn và chậm chạp đến Guadalcanal đổ quân an toàn ngày hôm sau. Hạm đội sẽ nhận lệnh chỉ huy từ soái hạm Hiei mà Phó Đô đốc Abe Hiroaki đang chỉ huy.

     Thiết giáp hạm USS Washington.

    Thiết giáp hạm USS Washington.

    Hạm đội của Abe Hiroaki thiết lập đội hình cách 110 km về phía bắc eo biển Indispensable và bắt đầu tiến về Guadalcanal vào ngày 12/11, dự định sẽ đến nơi vào buổi sáng sớm hôm sau ngày 13/11. Đoàn tàu vận tải chậm hơn cùng 11 hay 12 khu trục hạm được chỉ huy bởi Tanaka Raizo bắt đầu đi vào vùng biển New Georgia Sound từ Shortlands theo kế hoạch sẽ đến Guadalcanal vào đêm ngày 13/11. Ngoài hai thiết giáp hạm, hạm đội của Abe còn gồm tuần dương hạm hạng nhẹ Nagara cùng 11 khu trục hạm chia làm hai nhóm. Nhóm khu trục hạm số 10 được chỉ huy bởi thiếu tướng hải quân Kimura Susumu , nhóm khu trục hạm số 4 được chỉ huy bởi thiếu tướng hải quân Takama Tamotsu. Ba khu trục hạm Shigure, Shiratsuyu và Yugure làm nhiệm vụ cảnh giới phía sau trong quần đảo Russell khi hạm đội của Abe tiến vào vùng biển quanh đảo Savo phía Bắc ngoài khơi Guadalcanal.

    Máy bay trinh sát của Hoa Kỳ phát hiện hạm đội Nhật Bản đang tới gần và phát tín hiệu cảnh báo cho chỉ huy của quân Đồng Minh. Khi nhận được cảnh báo Richmond K.Turner đã tập hợp và tách tất cả các tàu có thể chiến đấu ra khỏi đoàn tàu vận tải để bảo vệ lực lượng trên bờ ở Guadalcanal khỏi các cuộc tấn công và đổ bộ của Nhật Bản có thể xảy ra đồng thời ra lệnh cho các tàu vận tải rút ra khỏi khu vực vào lúc hoàng hôn ngày 12/11. Đô đốc Daniel Callaghan có thâm niên hơn vài ngày nên đã được bổ nhiệm làm chỉ huy trưởng, dù Norman Scott có nhiều kinh nghiệm hơn. Callaghan chuẩn bị để nghênh chiến với hạm đội của Nhật Bản vào ban đêm trong một trận đánh quyết liệt. Lực lượng hải quân của Callaghan bao gồm hai tuần dương hạm hạng nặng là San Francisco và Portland, ba tuần dương hạm hạng nhẹ là Helena, Juneau và Atlanta cùng 8 khu trục hạm khác. Đô đốc Callaghan chỉ huy trên chiếc San Francisco.

     

    Những thước phim tư liệu về chiến dịch Guadalcanal.

    Khi tiến đến Guadalcanal hạm đội Nhật Bản đã đi vào một vùng mưa dông lớn và dày đặc, do đội hình vốn rất phức tạp cùng với các mệnh lệnh khó hiểu của Abe đội hình của hạm đội Nhật Bản đã tách ra thành nhiều nhóm. Hạm đội của Hoa Kỳ đã xếp thành một hàng dài bao quanh vùng biển Savo với các khu trục hạm đứng trước và sau hàng phòng thủ còn các tuần dương hạm đứng chính giữa. Khoảng cách giữa các khu trục hạm với các tuần dương hạm là 730m, giữa các tuần dương hạm với nhau là 640m và giữa các khu trục hạm với nhau là 460m. Năm chiếc tàu được trang bị hệ thống ra đa cảm biến mới và có tầm hoạt động xa nhưng Callaghan quyết định không để chúng đứng ở phía trước hàng phòng thủ, và cũng không chọn tàu nào làm soái hạm cho mình. Callaghan không phổ biến kế hoạch tác chiến chiến cho các thuyền trưởng trong hạm đội của mình.

    Vào khoảng 01h25 ngày 13/11 trong điều kiện trời tối đen như mực do cơn mưa dông lớn và trăng khuyết, hạm đội Nhật Bản tiến vào eo biển giữa Savo và Guadalcanal, sẵn sàng pháo kích sân bay Henderson. Một số tàu của Hoa Kỳ đã phát hiện ra các tàu của Nhật Bản vào lúc 01h24 nhưng gặp vấn đề thông tin liên lạc để thông báo cho Callaghan, vì thiếu kinh nghiệm hoạt động đồng bộ và chất lượng hệ thống radio mà họ được trang bị, cũng như sự thiếu kỷ luật trong thao tác phát tín hiệu liên lạc. Vài phút sau hai lực lượng gần như đồng thời nhìn thấy nhau, nhưng cả Abe Hiroaki và Daniel J.Callaghan đều ngần ngại ra lệnh cho các tàu của mình tấn công ngay lập tức. Abe gần như bất ngờ bởi hạm đội kẻ thù ở quá sát nên không thể quyết định được liệu ông có nên ra lệnh tạm rút lui để các thiết giáp hạm có đủ thời gian thay đạn nổ sát thương (dùng để pháo kích) thành đạn chống hạm, hay tiếp tục tiến lên phía trước. Ông quyết định tiếp tục tiến lên, trong lúc đó Callaghan định đánh thọc sườn hạm đội Nhật Bản nhưng lại bị rối vì chỉ nhận được thông tin không đầy đủ, và vì rằng đội hình hạm đội Nhật Bản chia thành từng nhóm nhỏ, nên ông đã ra những mệnh lệnh di chuyển hạm đội khó hiểu, và nói chung là ông để mất quá nhiều thời gian trước khi hành động. Đội hình tàu chiến của Hoa Kỳ bắt đầu bị phân rã, góp phần vào việc Callaghan phải trì hoãn ra lệnh nổ súng, để xác định và sắp xếp lại đội hình. Trong lúc này các tàu của Nhật Bản đã đan xem vào giữa đội hình của Hoa Kỳ, các thuyền trưởng hai bên đều bồn chồn đợi lệnh khai hỏa.

     Hình ảnh pháo kích từ tàu USS Washington của Hải quân Hoa Kỳ.

    Hình ảnh pháo kích từ tàu USS Washington của Hải quân Hoa Kỳ.

    Vào lúc 1h48 Akatsuki và Hiei bật hai đèn pha dò tìm vào chiếc Atlanta chỉ cách 2,7 km (là cự ly bắn trực xạ của các pháo hạm cỡ lớn lớn). Vài chiếc tàu của hai bên bắt đầu tự nổ súng lẻ tẻ vào nhau. Nhận ra rằng lực lượng của mình đã bị bao vây bởi tàu Nhật Bản, Callaghan ra lệnh "tàu số lẻ nổ súng bên mạn phải, tàu số chẵn bắn sang mạn trái", chỉ có điều là trước khi trận đánh nổ ra, các tàu không được phân công số, và đội hình tàu chiến vốn dĩ đã rất hỗn độn. Tất cả các tàu chưa nổ súng còn lại của Hoa Kỳ đều khai hỏa, một số tàu khác thì phải thay đổi mục tiêu cho phù hợp với mệnh lệnh của Callaghan. Hai lực lượng ở thế đan xen với nhau, bắn pháo cận chiến vào nhau một cách hỗn loạn như các trận hải chiến ở các thế kỷ trước. Hoa tiêu của chiếc Monssen mô tả trận đánh "cứ như trận loạn đả trong quán bar khi tắt đèn". Trong khi đó, Robert Leckie, một lính thủy quân lục chiến Mỹ chứng kiến trận đánh này trên đảo Guadalcanal đã kể lại: "Pháo sáng sáng bắn lên cao, khủng khiếp và đỏ rực. Các vệt pháo sáng khổng lồ xé toạc màn đêm trong ánh sáng cam... Mặt biển cứ như một tấm đá thủy tinh được đánh bóng mà trên đó các tàu chiến như được thả lên đó, bất động, làm tâm điểm của những hình tròn lan ra xung quanh như những viên đá rớt xuống bùn".

     Trận hải chiến Guadalcanal được chuyển thể trên seri phim truyền hình The Pacific của HBO.

    Trận hải chiến Guadalcanal được chuyển thể trên seri phim truyền hình The Pacific của HBO.

    Sau 40 phút kịch chiến tay đôi với nhau hạm đội hai bên bắt đầu tách dần nhau ra và ngừng bắn vào lúc 2h26 sau khi Abe và thuyền trưởng Gilbert Hoover (thuyền trưởng của chiếc Helena và là chỉ huy cao cấp nhất của hạm đội Hoa Kỳ còn sống sót cho đến lúc đó) ra lệnh ngưng chiến. Phía đô đốc Abe thì có một thiết giáp hạm, một tuần dương hạm hạng nhẹ và bốn khu trục hạm chỉ bị hư hỏng nhẹ cùng bốn khu trục hạm khác bị hư hỏng tương đối. Phía Hoa Kỳ thì chỉ còn một tuần dương hạm hạng nhẹ và một khu trục hạm là vẫn còn đủ khả năng chống trả. Mặc dù có thể Abe không nhận ra, nhưng tình thế đã không để cho hạm đội của ông bắn phá sân bay Henderson và tiêu diệt hoàn toàn hạm đội Hoa Kỳ, tạo ra một vùng an toàn để đổ bộ quân tiếp viện và quân nhu. Cho dù là lý do gì thì Abe cũng đã ra lệnh đình chiến và rút tất cả các tàu chiến ra khỏi khu vực, dù hai chếc Yukikaze và Teruzuki vẫn ở lại để trợ giúp Hiei

    Vào khoảng 3h ngày 13/11 đô đốc Yamamoto đã hoãn kế hoạch đổ bộ của đoàn tàu vận tải và tất cả trở về Shortlands để chờ mệnh lệnh mới. Khi bình minh ló dạng ba chiếc tàu bị tê liệt của Nhật Bản là Hiei, Yudachi và Amatsukaze cùng ba chiếc tàu bị tê liệt khác của Hoa Kỳ là Portland, Atlanta và Aaron Ward nằm ngoài khơi xung quanh đảo Savo. Chiếc tàu kéo Bobolink chạy lòng vòng trong vùng biển New Georgia Sound suốt ngày 13/11 để trợ giúp các tàu và những người còn sống sót của Hoa Kỳ cũng như báo cáo lại việc đã bắn tất cả những người sống sót của Nhật Bản đang lênh đênh trên mặt nước. Vì nhầm lẫn về tính chất của trận chiến, Hoa Kỳ cứ nghĩ là mình đã đánh chìm ít nhất bảy tàu của Nhật Bản. Cộng với việc Nhật Bản rút lui đã khiến Hoa Kỳ càng tin là mình đã chiến thắng. Chỉ đến khi kết thúc chiến tranh thì Hoa Kỳ mới nhận ra rằng mình đã bị thiệt hại nặng nề hơn nhiều so với Nhật Bản và đã thua về mặt chiến thuật nặng chưa từng thấy khi đó.

    Đây là trận hải chiến lớn cuối cùng của Nhật Bản trong việc cố gắng chiếm lại sân bay Henderson hay bao vây vùng biển xung quanh đó. Hải quân Hoa Kỳ đã thành công trong việc tái tiếp tế cho lực lượng của mình tại Guadalcanal kể cả việc đưa hai sư đoàn đến vào cuối tháng 12/1942. Việc không thể vô hiệu hóa Henderson đã khiến cho mọi nỗ lực của Nhật Bản bị thất bại trong việc chống lại lực lượng Hoa Kỳ tấn công Guadalcanal. Việc chống trả cuối cùng của Nhật Bản là khi kết thúc chiến dịch Guadalcanal vào ngày 9/2/1943 khi Nhật Bản di tản tất cả lực lượng ra khỏi tất cả các đảo trong chiến dịch Ke. Việc chiến thắng chiến dịch Guadalcanal đã giúp quân Đồng Minh củng cố các nơi khác tại khu vực và đã giúp kết thúc chiến tranh thế giới thứ hai khi Nhật Bản đầu hàng. Tổng thống Hoa kỳ Franklin Roosevelt đã nhận xét sau khi xem kết quả của trận chiến: "Có vẻ như đã giành được bước ngoặc quyết định trong cuộc chiến".

    Tham khảo History, WarHistoryOnline

    Tin cùng chuyên mục
    Xem theo ngày

    NỔI BẬT TRANG CHỦ