Trong vài thập kỷ qua, các bác sĩ đã đi tới một giả thuyết phản trực giác về thế giới hiện đại sạch gấp nhiều lần quá khứ. Việc sống quá sạch sẽ có thể khiến chúng ta bị dị ứng, hen suyễn, các bệnh viêm ruột và các rối loạn tự miễn khác.
Giả thuyết cho hay: đối với trẻ có điều kiện, việc ít tiếp xúc với vi khuẩn, virus và các bệnh dị ứng sẽ ngăn cản sự phát triển bình thường của hệ miễn dịch, qua đó gia tăng khả năng mắc phải các rối loạn trong hệ thống miễn dịch. Nó được đặt tên là giả thuyết vệ sinh.
"Hệ miễn dịch của một đứa trẻ cần được giáo dục, như bất kỳ cơ quan nào khác đang phát triển trong cơ thể con người", Vox dẫn nguyên văn lời nhà dị ứng học nhi khoa Erika von Mutius, một trong những bác sĩ đầu tiên nghiên cứu ý tưởng này. "Giả thuyết vệ sinh cho rằng, sự tiếp xúc sớm với vi khuẩn trong giai đoạn đầu đời sẽ có ích trong việc dạy dỗ hệ thống miễn dịch đang phát triển của một bé sơ sinh".
Không có những thông tin này, hệ miễn dịch của bạn sẽ có khuynh hướng tấn công sai mục tiêu trong trường hợp rối loạn tự miễn. Mục tiêu ở đây là chính cơ thể người.
Giả thuyết vệ sinh vẫn còn là vấn đề tranh luận sôi nổi giữa các nhà khoa học, nhưng bằng chứng hậu thuẫn giả thuyết đang tích tụ ngày một nhiều, khi ta đã có cả ví dụ trên cả con người và động vật. Giả thuyết vệ sinh đã được trích dẫn như một lời giải thích vì sao tỉ lệ dị ứng và hen suyễn ở các quốc gia giàu có lại cao hơn nhiều.
Gần đây nhất, một nghiên cứu công bố năm 2014 đã cho thấy, các trẻ lớn lên trong những căn nhà có mức độ vi khuẩn nhất định – trên mình gián, chuột, vẩy da mèo (cat dander) – ít có khả năng bị hen suyễn và chứng thở khò khè ở tuổi lên ba.
Làm cách nào mà ở bẩn có thể khiến chúng ta khỏe mạnh hơn? Dưới đây là một lý giải về giả thuyết vệ sinh.
Từ đâu các bác sĩ cho rằng sống bẩn giúp chúng ta sống khỏe?
Rõ ràng, việc xã hội loài người đề ra các quy tắc vệ sinh, các công nghệ giúp cuộc sống trở nên sạch sẽ, mang về vô vàn lợi ích. Chúng là một phần giúp chất lượng cuộc sống cải thiện, và tỷ lệ tử vong từ các bệnh truyền nhiễm xuống thấp.
Nhưng các nhà nghiên cứu đã nhận ra rằng, một vài bệnh tự miễn đặc trưng – như hen suyễn, viêm mũi dị ứng theo mùa, các bệnh viêm ruột và nhiều chứng dị ứng khác – đã trở nên phổ biến hơn nhiều khi chúng ta vệ sinh hơn. Những chứng bệnh vừa nêu xuất hiện nhiều ở những quốc gia giàu có, ít thấy hơn ở những nước đang phát triển.
Cuối thập niên 1980, khi nghiên cứu dị ứng trẻ em ở Tây Đức và Đông Đức, nhà dịch tễ học người Anh David Strachan bắt đầu nghi ngờ có mối liên quan. Ông nhận thấy, ở những thành phố Đông Đức ô nhiễm, trẻ em có tỉ lệ viêm mũi dị ứng và hen suyễn thấp hơn nhiều các thành phố Tây Đức sạch sẽ và giàu có hơn.
Để giải thích điều này, Strachan xem xét tất cả những khác biệt về lối sống và nhận ra rằng, có thể trẻ em Tây Đức ít được tiếp xúc với bạn cùng trang lứa tại nhà trẻ, trái ngược với tỷ lệ tiếp xúc của trẻ em Đông Đức. Strachan đề xuất: sự thiếu tiếp xúc với vi khuẩn và các tác nhân gây bệnh khác, thường có được từ các trẻ khác, sẽ ảnh hưởng đến hệ miễn dịch của các em theo cách nào đó, dẫn tới việc gia tăng khả năng bị các bệnh tự miễn trên trẻ nhỏ.
Bằng chứng của giả thuyết vệ sinh
Nhiều thập niên sau đó, người ta đã thu thập tất cả các loại bằng chứng dịch tễ học củng cố ý kiến của nhà dịch tễ học Strachan. Ban đầu, ông thấy rằng trẻ em ở Anh quốc lớn lên trong những gia đình đông con cũng có ít nguy cơ bị hen suyễn và viêm mũi dị ứng hơn, có lẽ là là vì chúng đã tiếp xúc với nhiều vi khuẩn hơn từ anh em họ hàng.
Các bác sĩ khác thì thấy rằng, nói chung, những người ở các quốc gia giàu có, được khử khuẩn sạch hơn có tỉ lệ hen suyễn và dị ứng cao hơn nhiều so với người sống ở thế giới đang phát triển. Điều này có thể là do vai trò của các biến thể tự nhiên trong các quần thể, nhưng gần đây hơn, các bác sĩ lại thấy rằng, những người từ một đất nước đang phát triển di chuyển sang một nước giàu có hơn sẽ có nguy cơ bị các bệnh này cao hơn người vẫn sống ở quê hương mình.
Thậm chí trong cùng một quốc gia đang phát triển như Ghana, trẻ em nhà giàu thành thị cũng có tỉ lệ bị các bệnh tự miễn cao hơn trẻ em ở nông thôn hay các thành phố nghèo hơn. Trong thế giới giàu có, những người trưởng thành dọn dẹp nhà cửa bằng bình xịt kháng khuẩn có tỉ lệ hen suyễn cao hơn, và những người tiếp xúc với triclosan (một hoạt chất trong xà bông kháng khuẩn) thường xuyên hơn sẽ có tỉ lệ dị ứng và viêm mũi dị ứng cao hơn. Trong khi đó, trẻ lớn lên ở nông trại hay trẻ có thú nuôi có tỉ lệ dị ứng và hen suyễn thấp hơn.
Tất cả những điều này không phải là nguyên nhân mà là những mối tương quan, nhưng chúng cho thấy khả năng dễ sinh bệnh trong một môi trường sạch sẽ. Nhiều nghiên cứu đối chứng về đề tài này cũng đã củng cố giả thuyết vệ sinh, ví dụ như một nghiên cứu mới được thực hiện tại Uganda. Trong nghiên cứu ở các bà mẹ được cho uống thuốc chữa giun sán trong thời gian mang thai, con em họ bị hen suyễn và phát ban với tỉ lệ cao hơn.
Các nghiên cứu đối chứng với động vật cũng đã đem lại những bằng chứng thuyết phục cho giả thuyết. "Trong những nghiên cứu thực nghiệm trên chuột không mầm bệnh trong môi trường vô trùng, các nhà nghiên cứu thấy chúng rất dễ bị hen suyễn và viêm đại tràng, bên cạnh các vấn đề khác", Vox dẫn lại lời nhà dị ứng học von Mutius.
Tuy vậy, có một điều thú vị là, nếu khi còn nhỏ các chú chuột siêu khử khuẩn này được tiêm các vi khuẩn ruột có mặt ở chuột bình thường, nguy cơ bị bệnh tự miễn ở chúng sẽ không gia tăng nữa. Bằng một cách nào đó, việc không tiếp xúc với vi khuẩn trong thời thơ ấu dường như sẽ gia tăng nguy cơ các bệnh tự miễn ở cả người và chuột.
Vi khuẩn có thể giúp chúng ta phòng bệnh như thế nào?
Các bằng chứng về giả thuyết vệ sinh đã gia tăng khi các nhà khoa học thức tỉnh về tầm quan trọng của vi khuẩn "tốt" trong cơ thể chúng ta nói chung. Các loài đặc biệt sống trong cơ thể bạn – tất cả được gọi chung là hệ vi sinh vật hay quần thể vi sinh vật (thuật ngữ: "microbiome") – có thể liên quan tới việc phòng ngừa béo phì, tiểu đường và thậm chí là trầm cảm.
Các nhà khoa học đã đưa ra một vài cơ chế khác nhau về việc làm cách nào mà sự tiếp xúc vi khuẩn hạn chế có thể dẫn tới sự phát triển các rối loạn tự miễn nói riêng. Ở thời điểm này, các nhà khoa học cho rằng cơ chế khả dĩ nhất có liên quan đến các tế bào đặc biệt của hệ miễn dịch, vẫn được gọi là tế bào T.
Cũng trong thử nghiệm trên cùng nhóm chuột, các nhà khoa học thấy rằng chuột sống sạch, không mang vi khuẩn lại có số lượng lớn tế bào T trong dạ dày và phổi. Bình thường, tế bào T thực hiện nhiều vai trò trong hệ miễn dịch; chúng có thể nhận ra và loại bỏ các vi khuẩn, virus có hại. Tuy nhiên, trong một số trường hợp, người ta phát hiện có những loại tế bào T nhất định có đóng góp vào việc gây hen suyễn và viêm ruột già ở chuột. Điều này dường như cũng là xảy ra trên của những con chuột siêu sạch không mang bệnh, bởi vì khi các nhà khoa học cho chúng uống một hóa chất vô hiệu hóa các tế bào T này, tỷ lệ mắc bệnh tự miễn trên đàn chuột siêu sạch giảm đáng kể.
Nếu cơ chế tương tự tồn tại ở con người, nó sẽ lý giải tất cả những phát hiện dịch tễ học về các bệnh tự miễn này và củng cố mạnh mẽ giả thuyết vệ sinh.
Bất đồng giữa các nhà khoa học
Hiện tại, giả thuyết vệ sinh vẫn chỉ là một giả thuyết: một học thuyết đang được xây dựng, sẽ còn thay đổi trong tương lai.
Tuy nhiên, không có nhà khoa học nào cho rằng giả thuyết vệ sinh có thể giải thích được MỌI trường hợp dị ứng và hen suyễn. Các rối loạn tự miễn có một phần di truyền rõ ràng, vì vậy tương tác giữa gen và môi trường của một người cũng đóng góp vào tỉ lệ mắc bệnh tự miễn.
Ngoài ra, có một số người cho rằng, giả thuyết vệ sinh có thể lý giải sự gia tăng một số loại dị ứng, nhưng không lý giải được bệnh hen suyễn, một phần vì tỉ lệ hen suyễn ở thế giới giàu có đã không tăng lên cho tới những năm 1980, nhiều thập niên sau khi mức độ vệ sinh như hiện nay đã được thiết lập ở nhiều nơi. Có thể là vì có những loại hen suyễn là do các phản ứng dị ứng, còn những loại khác thì không, và trong thực tế là có những loại dị ứng sẽ trầm trọng hơn do tiếp xúc với bụi bẩn và các điều kiện kém vệ sinh khác.
Kể cả khi nói về khía cạnh dị ứng, có những câu hỏi dịch tễ học khác mà giả thuyết vệ sinh không thể trả lời được. Ví dụ như vì sao ở một số thành phố châu Âu, con em dân nhập cư từ các quốc gia khác có tỉ lệ dị ứng thấp hơn các trẻ còn lại, mặc dù chúng sống trong các điều kiện giống nhau. Rõ ràng, chúng ta vẫn đang trong những giai đoạn đầu tiên của việc hiểu rõ sự phát triển của hệ miễn dịch, và không biết rõ cách thức mà sự tiếp xúc với vi khuẩn ảnh hưởng đến điều đó.
Có lẽ điều quan trọng nhất là, tất cả các nhà khoa học đều thống nhất là, các nghiệp vụ vệ sinh cơ bản đã mang đến cho chúng ta những lợi ích khổng lồ: cứu được hàng triệu mạng sống nhờ giảm bớt tất cả các loại bệnh truyền nhiễm, và đây có thể là những tiến bộ sức khỏe quan trọng nhất mà con người chúng ta đã làm được với tư cách là một giống loài cho đến nay.
Vì vậy, điều cốt lõi là sử dụng nghiên cứu để tính toán sự cân bằng hợp lý giữa vệ sinh và tiếp xúc vi khuẩn để hạn chế sự lây lan các bệnh truyền nhiễm mà không làm gia tăng các rối loạn tự miễn.
Điều này có ý nghĩa gì với chúng ta?
Không có điều nào có nghĩa là bạn nên ngừng lau nhà hoặc tắm cho bản thân, hay bắt đầu uống nước có khả năng bị nhiễm độc do rác thải.
Với một người nào đó, hầu hết những kết luận này liên quan đến sự tiếp xúc vi khuẩn trong thời thơ ấu – không dành cho người trưởng thành. Ngoài ra, hầu hết sự giảm sút tiếp xúc vi khuẩn trong xã hội hiện đại của chúng ta đến từ các xu hướng lớn hơn (như lạm dụng kháng sinh và các nhà máy xử lý nước thải) hơn là các lựa chọn cá nhân.
Do đó, vào thời điểm này, các ứng dụng thực tiễn của nghiên cứu này ở mức độ cá nhân là tương đối hạn chế. Nó có thể khiến bạn suy nghĩ kỹ trước khi cho con bạn dùng xà phòng kháng khuẩn (dù sao thì, đây là cái mà thật ra bạn cũng không nên dùng). Quan trọng hơn, giả thuyết vệ sinh đem lại một số bằng chứng việc sinh con tự nhiên và cho con bú là quan trọng đối với sự phát triển của hệ vi sinh vật lành mạnh ở trẻ sơ sinh.
Nhưng điều quan trọng hơn là cách mà giả thuyết vệ sinh sẽ định hướng cho suy nghĩ của các bác sĩ về sự phát triển các bệnh tự miễn. Trong tương lai, nếu các nhà khoa học có thể hiểu rõ hơn các cơ chế của giả thuyết vệ sinh ở cấp độ tế bào, chúng ta có thể tính toán cách cân bằng vệ sinh cơ bản và tiếp xúc vi khuẩn – và loại tiếp xúc đúng để phòng ngừa dị ứng, các bệnh viêm ruột, hen suyễn.
Tham khảo: Vox
NỔI BẬT TRANG CHỦ
Sự thật từ nghiên cứu khoa học: Chơi trò chơi điện tử có ảnh hưởng bất ngờ đến chỉ số IQ của trẻ em!
Trò chơi điện tử từ lâu đã là chủ đề gây tranh cãi khi nhắc đến ảnh hưởng của chúng đối với trẻ em. Trong khi nhiều ý kiến chỉ trích việc chơi game có thể gây hại cho sự phát triển trí não, thì một nghiên cứu khoa học đã mang đến cái nhìn khác biệt, cho thấy mối liên hệ tích cực giữa việc chơi game và sự gia tăng trí thông minh ở trẻ nhỏ.
Những tiểu tiết bạn có thể đã bỏ qua trong trailer The Witcher 4