Loài mực khổng lồ có thể đánh chìm thuyền bè tưởng chỉ có trong truyền thuyết và bí ẩn 150 năm mới có lời giải
Mực khổng lồ, hay còn có tên khoa học Architeuthis, là một trong những sinh vật bí ẩn nhất của đại dương.
Sống ở độ sâu từ 396 đến 914 mét dưới biển, mực khổng lồ cư ngụ ở những nơi sâu thẳm nhất, tăm tối nhất trên Trái Đất này. Cho đến hiện tại, loài người vẫn chưa hiểu rõ hoàn toàn về tuổi thọ, cách giao phối, di cư, hay cách sinh vật khổng lồ này tạo ra âm thanh. Nói một cách dễ hiểu, sinh vật này cho đến nay vẫn là một ẩn số.
Một số nghiên cứu về gen đã khẳng định, mực khổng lồ đã tồn tại từ 730.000 năm về trước. Chúng cũng xuất hiện trong kho tàng truyền thuyết của nhân loại từ cách đây hàng trăm năm, như thủy quái huyền thoại Kraken trong thần thoại Bắc Âu, hay những con bạch tuộc khổng lồ trong tiểu thuyết "Hai vạn dặm dưới đáy biển" của đại văn hào Jules Verne.
Tranh minh họa về loài bạch tuộc khổng lồ trong tiểu thuyết "Hai vạn dặm dưới đáy biển"
Đặc biệt, cuốn "Lịch sử tự nhiên của Na Uy" xuất bản vào năm 1755 đã miêu tả mực khổng lồ có kích thước tương đương với "một số hòn đảo nhỏ", vốn gây ra những xoáy nước khổng lồ hút thuyền bè của con người mỗi khi nó lặn xuống biển.
Quái vật Kraken trong truyền thuyết Bắc Âu
Cho đến khoảng 150 năm trước, hầu hết chúng ta không nghĩ rằng mực khổng lồ là có thật. Chúng được coi như một loài thủy quái trong truyền thuyết, vốn được thêu dệt từ các câu chuyện của thủy thủ. Tuy nhiên, những bằng chứng về sự tồn tại của chúng ngày càng trở nên rõ ràng hơn nhờ vào một loài vật khác – cá nhà táng. Những vết sẹo trên cơ thể hoặc phần mỏ của loài mực được tìm thấy trong dạ dày của cá nhà táng đã cho thấy, một trận quyết chiến đã xảy ra giữa 2 loài sinh vật khổng lồ này dưới biển sâu.
Vết sẹo trên cơ thể cá nhà táng được cho là do mực khổng lồ gây ra
Năm 1857, Japetus Steenstrup, nhà động vật học từ Đại học Copenhagen, Đan Mạch, đã lần đầu tiên chứng minh với cộng đồng khoa học thế giới sự tồn tại của giống mực khổng lồ. Tuyên bố được đưa ra sau khi vị giáo sư này nghiên cứu một bộ phận mỏ mực bị trôi dạt vào bờ biển Đàn Mạch. Ông đặt tên cho chúng là Architeuthis Dux, tiếng Latin có nghĩa là "mực chúa".
Bất chấp thành công ban đầu của Streenstrup, không có thêm bất kỳ nghiên cứu đáng kể nào về mực khổng lồ được công bố sau hơn một thế kỷ, do chúng hiếm khi xuất hiện.
Bộ phận xúc tu dài hơn 5m của mực khổng lồ được tìm thấy bởi ngư dân ở Vịnh Conception, Canada vào năm 1873
Vào năm 1997, Hội Địa lý Quốc gia Mỹ đã gắn máy quay vào những con cá nhà táng với hy vọng sẽ được chứng kiến khoảnh khắc chạm trán với loài mực khổng lồ của chúng, nhưng đã không thành công.
Năm 2003, Steve O'Shea - một trong những nhà nghiên cứu mực khổng lồ nổi tiếng nhất thế giới, đã lãnh đạo một nhóm nghiên cứu trong việc cố gắng ghi lại hình ảnh của loài mực khổng lồ khi chúng di cư vào vùng biển New Zealand. Kế hoạch của ông là nghiền nát các cơ quan sinh dục của loài mực và hòa chúng vào nước để những con mực khổng lồ có thể giao phối ngay trước ống kính máy quay. Tuy nhiên, cuộc thử nghiệm cuối cùng đã thất bại.
Cá nhà táng thường xuyên có những cuộc đụng độ với mực khổng lồ
Vào ngày 30.9.2004, các nhà sinh vật biển Tsunemi Kubodera và Kyoichi Mori đã chụp được bức ảnh đầu tiên về một con mực khổng lồ sống ngoài khơi đảo Chichijima của Nhật Bản, sau khi phát hiện nhiều vết sẹo trên cơ thể những con cá nhà táng sinh sống ở vùng biển này.
Họ hạ một thiết bị có máy quay và mồi nhử xuống độ sâu 914 mét. Một con mực khổng lồ kích thước khoảng 7m đã sử dụng các xúc tu của nó để cuốn lấy miếng mồi. Sau 4 giờ vật lộn để giải phóng các xúc tu của mình nhưng bất thành, con mực đã chết.
Ông Tsunemi cho biết vụ việc đã thay đổi hình ảnh về loài mực khổng lồ, từ một sinh vật hiền hòa trở thành kẻ săn mồi đáng sợ của biển sâu.
Ảnh chụp đầu tiên về loại mực khổng lồ ở độ sâu 600m
Đáng chú ý, vào năm 2006, nhóm nghiên cứu của Tsunemi tiếp tục công bố video đầu tiên về một con mực khổng lồ còn sống. Nó tương đối nhỏ, chỉ nặng khoảng 50 kg và dài 3,3 mét, nhưng đó là hình ảnh sống động đầu tiên của loài sinh vật này. "Không ai từng nhìn thấy một con mực khổng lồ còn sống trừ những người ngư dân", ông nói với Reuters.
Con mực khổng lồ đang được nhóm nghiên cứu Nhật Bản kéo lên vào năm 2006
Năm 2012, lần đầu tiên trong lịch sử, các nhà khoa học đã quay phim được mực khổng lồ tại chính môi trường sống của nó ngoài tự nhiên. Đoạn phim được quay một loại camera chuyên biệt được thiết kế bởi nhà sinh vật học Edith Widder, có khả năng phát ra ánh sáng màu xanh.
Theo nhà sinh vật học này, số lượng cá thể mực khổng lồ như vậy ngoài các đại dương có thể lên tới hàng triệu con mới có thể nuôi sống nhiều loại cá nhà táng đến vậy.
Tuy nhiên, nhằm lẩn tránh sự truy đuổi của con người, loài mực này ít khi xuất hiện. Hiểu được điều này, bà đã thiết kế một chiếc máy ảnh không có bộ đẩy hoặc động cơ, và không phát ánh sáng đỏ do nó hoàn toàn vô hình với các loài vật dưới biển, vốn chỉ thích nghi với việc nhìn thấy ánh sáng xanh.
Đoạn video quay trực tiếp mực khổng lồ tại nơi cư ngụ dưới đáy biển
Cho đến nay, con mực khổng lồ lớn nhất từng được ghi nhận có chiều dài lên tới 13 mét, nhưng các nhà khoa học tin rằng chúng có thể đạt chiều dài lên tới 20 mét. Ngoài ra, chúng cũng là loài vật có đôi mắt lớn nhất thế giới, với đường kính lên tới 30 cm, tương đương kích thước một quả bóng rổ.
Mực khổng lồ có 8 xúc tu nhỏ và 2 xúc tu dài để bắt con mồi. Nhưng các xúc tu của chúng không có bất kỳ cơ bắp nào để khống chế con mồi. Vì vậy, nếu phải đối mặt với một con cá nhà táng, chúng chỉ có thể chạy trốn.
Một mẫu vật mực khổng lồ được trưng bày ở bảo tàng Darwin Centre (Anh)
Dù đã xuất hiện nhiều lần trên camera, các nhà khoa học nhận định mực khổng lồ vẫn còn là một loài vật đầy bí ẩn. Nước biển ngày càng ấm và mang tính acid hơn, do vậy mực khổng lồ có thể tuyệt chủng trước khi con người kịp nghiên cứu kỹ về chúng.
Tham khảo BusinessInsider
NỔI BẬT TRANG CHỦ
Google: Giải được bài toán 10 triệu tỷ tỷ năm chỉ trong 5 phút, chip lượng tử mới là bằng chứng về đa vũ trụ
Điều đáng ngạc nhiên hơn cả là nhiều người trên cộng đồng mạng thế giới lại đang đồng tình với kết luận của Google.
Gần 2025 rồi mà vẫn dùng USB để lưu công việc thì quả là lỗi thời