Thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước để giảm đầu tư công

    PV,  

    Theo quy định thí điểm có hiệu lực từ 15/2/2015, một việc thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước.

    Quyết định quy định thí điểm vè thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 15/2/2015 (Ảnh minh họa. Nguồn: Intenet)

    Quyết định quy định thí điểm vè thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước sẽ có hiệu lực thi hành từ ngày 15/2/2015 (Ảnh minh họa. Nguồn: Intenet)

    Ưu tiên DN Việt cho cơ quan nhà nước thuê dịch vụ CNTT

    Quyết định 80/2014/QĐ-TTg quy định thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước vừa được Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng ký ngày 30/12/2014.

    Có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/2/2015, quy định thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước áp dụng với các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp công lập, tổ chức khoa học và công nghệ công lập, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp (gọi chung là cơ quan nhà nước); các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia cung cấp dịch vụ CNTT cho cơ quan nhà nước (gọi tắt là nhà cung cấp dịch vụ).

    Chủ trương cho cơ quan nhà nước thuê dịch vụ CNTT đã được Thủ tướng đồng ý đưa vào Nghị quyết phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 6/2014 để giao nhiệm vụ cho các Bộ, ngành, địa phương tập trung chỉ đạo triển khai thực hiện. Thủ tướng Chính phủ giao Bộ TT&TT chủ trì, phối hợp với Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư soạn thảo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ để cụ thể hóa cơ chế thuê dịch vụ CNTT trong các cơ quan nhà nước.

    Với việc quy định thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước được Thủ tướng Chính phủ ra quyết định ban hành, các cơ quan nhà nước đã có cơ chế để thực hiện thuê dịch vụ CNTT.

    Theo quyết định này, Thủ tướng Chính phủ yêu cầu việc thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước phải được thực hiện theo nguyên tắc nâng cao hiệu quả của ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, giảm đầu tư từ ngân sách nhà nước. Trong trường hợp khả thi, tiếp tục khai thác tối đa hạ tầng kỹ thuật, hệ thống thông tin, phần mềm, phần cứng, thông tin, dữ liệu đã có.

    Bên cạnh đó, xem xét áp dụng hình thức thuê dịch vụ tập trung trong phạm vi của Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với các dịch vụ CNTT có tính chất, tính năng giống nhau mà nhiều cơ quan, đơn vị cùng có nhu cầu sử dụng.

    Thông tin, dữ liệu hình thành trong quá trình thuê dịch vụ và phần mềm được đặt hàng riêng để phục vụ cho việc cung cấp dịch vụ (nếu có) là tài sản thuộc sở hữu của bên thuê. Nhà cung cấp dịch vụ có trách nhiệm chuyển giao đầy đủ các thông tin, dữ liệu, mã nguồn của phần mềm đặt hàng riêng nói trên và các công cụ cần thiết khi kết thúc hợp đồng để đảm bảo cơ quan nhà nước vẫn có thể khai thác sử dụng dịch vụ được liên tục kể cả trong trường hợp thay đổi nhà cung cấp dịch vụ.

    Quyết định cũng nêu rõ nguyên tắc bảo đảm các yêu cầu về chất lượng dịch vụ, về công nghệ, quy trình cung cấp dịch vụ; tính liên tục, liên thông, kết nối, đồng bộ về ứng dụng CNTT trong mỗi bộ, ngành, tỉnh, thành phố và trên toàn quốc; đồng thời bảo đảm an toàn, bảo mật và tính riêng tư về thông tin, dữ liệu của cơ quan nhà nước; tuân thủ quy định của pháp luật về an toàn, an ninh thông tin, cơ yếu và Pháp lệnh bảo vệ bí mật nhà nước.

    Đặc biệt, các doanh nghiệp, tổ chức mà trong đó các pháp nhân và thể nhân Việt Nam nắm quyền kiểm soát chi phối và nắm giữ cổ phần chi phối (đối với công ty cổ phần) hoặc nắm giữ phần vốn góp chi phối (đối với các loại hình doanh nghiệp khác) sẽ được ưu tiên tham gia cung cấp dịch vụ CNTT trong các cơ quan nhà nước. Trường hợp các điều ước quốc tế mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia có quy định khác thì sẽ thực hiện theo quy định của điều ước đó.

    Định kỳ đánh giá hoạt động thuê dịch vụ CNTT

    Về nguyên tắc phân bổ và sử dụng kinh phí thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước, Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, kinh phí cho việc thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước được lấy từ nguồn kinh phí chi sự nghiệp, nguồn kinh phí đầu tư phát triển và các nguồn vốn nhà nước hợp pháp khác.

    Trường hợp thuê dịch vụ CNTT sử dụng nguồn kinh phí chi sự nghiệp, kinh phí cho việc thuê dịch vụ CNTT là kinh phí được giao để thực hiện các nhiệm vụ không thường xuyên, không thực hiện chế độ tự chủ của cơ quan nhà nước. Chủ trì thuê dịch vụ thực hiện việc lập kế hoạch theo hướng dẫn tại Điều 7 Quyết định này và Luật Ngân sách nhà nước.

    Đối với trường hợp thuê dịch vụ CNTT sử dụng nguồn kinh phí đầu tư phát triển, chủ trì thuê dịch vụ lập dự án theo hướng dẫn tại Điều 7 của Quyết định này và các quy định của pháp luật về đầu tư công.

    Cùng với việc hướng dẫn cụ thể về cơ chế tài chính, quy định thí điểm mới ban hành cũng quy định chi tiết cách thức lập, phê duyệt kế hoạch, dự án thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước.

    Đáng chú ý, Thủ tướng Chính phủ cũng yêu cầu, hoạt động thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước phải chịu sự giám sát, theo dõi, kiểm tra, đánh giá định kỳ về mặt chuyên môn, xác định mức độ đạt được so với yêu cầu của bên thuê, do cơ quan chuyên môn có thẩm quyền tiến hành, hoặc yêu cầu báo cáo nhằm bảo đảm việc thuê dịch vụ CNTT đạt hiệu quả, phù hợp với mục tiêu, chương trình và kế hoạch ứng dụng và phát triển CNTT trong cơ quan nhà nước.

    Đối với hoạt động thuê dịch vụ CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước, hoạt động này sẽ chịu sự giám sát, đánh giá định kỳ và về kết quả sử dụng ngân sách được cấp theo quy định của Luật Ngân sách nhà nước. Báo cáo giám sát, đánh giá định kỳ phải được chủ trì thuê dịch vụ lập và gửi tới các cơ quan có thẩm quyền về quản lý nguồn vốn, trong đó: báo cáo 6 tháng gửi chậm nhất vào ngày 15/7 của năm kế hoạch; báo cáo năm chậm nhất là vào ngày 31/1 của năm sau; và báo cáo kết thúc gửi chậm nhất 3 tháng sau khi kết thúc hợp đồng thuê dịch vụ.

    Theo ictnews

    >> Cơ quan Nhà nước nên thuê những dịch vụ CNTT nào?

    Tin cùng chuyên mục
    Xem theo ngày