UAV Predator gián điệp trên không của Hoa Kỳ

    TVD,  

    Predator là một trong những mẫu UAV được sử dụng phổ biến nhất của Mỹ. Nó được trang bị những công nghệ tiên tiến nhất, với camera và các cảm biến giúp thăm dò cùng hệ thống tên lửa có thể hỗ trợ chiến đấu.

    Ngày nay sức mạnh quân sự của các nước không còn là những đội quân tinh nhuệ, mà thay vào đó là công nghệ, là các cỗ máy quân sự thay thế con người. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật góp phần làm giảm đi tổn thất về người trên các chiến trường. Những cỗ máy không người lái luôn là một trong những dự án được quan tâm phát triển trong lĩnh vực khoa học quân sự. Trong bài viết này chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về chiếc UAV (máy bay không người lái) Predator, con "quái vật" nhỏ trên không của Hoa Kỳ.
     

     
    Predator là một trong những mẫu UAV được sử dụng phổ biến nhất của Mỹ. Nó được trang bị những công nghệ tiên tiến nhất, với camera và các cảm biến giúp thăm dò cùng hệ thống tên lửa có thể hỗ trợ chiến đấu. Đây là một mẫu máy bay không người lái được điều khiển từ xa với tầm hoạt động khá rộng, do đó nó có thể bay vào các khu vực nguy hiểm nhất để thăm dò mà không cần lo ngại về vấn đề thương vong. Giá 1 chiếc Predator xấp xỉ khoảng 4 triệu USD.
     
    Lịch sử phát triển
     
    Cơ quan tình báo CIA và Lầu Năm Góc đã bắt đầu thử nghiệm các mẫu máy bay do thám UAV từ những năm 1980. Các dự án nghiên cứu chú trọng vào các mẫu thiết kế đơn giản, nhỏ nhẹ và không phô trương sức mạnh. Vào đầu những năm 1990, mẫu UAV "Amber" của Leading Systems được bộ Quốc Phòng Mỹ để ý và mua lại, sau này được nghiên cứu và phát triển thành các mẫu Predator như ngày nay. Cho đến nay, các dự án nghiên cứu các mẫu UAV đã ngốn của chính phủ Mỹ hơn 2,4 tỷ USD.
     

     
    Từ tháng 4 đến tháng 5 năm 1995, các mẫu Predator đầu tiên được đưa vào một cuộc tập trận của quân đội Mỹ. Trong cuộc tập trận chiếc Predator tỏ ra khá hiệu quả trong việc trinh sát, thông báo trước các mối nguy hiểm trên chiến trường. Sau năm 1995, Predator được được đưa vào sử dụng chính thức trong nhiều trận chiến.
     

     
    Trong chiến dịch Hoa Kỳ Afghanistan 2001, Hoa Kỳ đã mua 60 chiếc Predator và đưa vào tham chiến nhưng có 20 chiếc bị hạ. Một phần nhỏ bị hạ so hỏa lực của kẻ thù, còn phần lớn là do điều kiện thời tiết đặc biệt là khi bay qua các vùng băng giá. Sau này các mẫu Predator được trang bị thêm hệ thống chống đông băng, cùng với bộ tăng áp động cơ và hệ thống điện tử được nâng cấp.
     

     
    Các mẫu Predator ban đầu được đặt tên là RQ-1 Predator, "R" để cho biết nhiệm vụ chính là trinh sát, "Q" nhằm chỉ mẫu máy bay không người lái, "1" để chỉ mẫu Predator đầu tiên. Sau này Không quân Hoa Kỳ có thêm 1 mẫu Predator nữa là MQ-1, "Q" để chỉ mẫu UAV này được trang bị tên lửa và có khả năng hỗ trợ chiến đầu bên cạnh việc trinh sát.
     
    Thông số kỹ thuật
     
    Predator được trang bị động cơ cánh quạt đẩy từ phía sau, động cơ Rotax 914 (4 thỳ, 4 xy lanh) 100 mã lực giúp nó có thể đạt vận tốc hơn 250 km/h. Chiều cao 2,1 m, dài 8,22 m, sải cánh chính 14,8 m với thiết kế giúp tạo thêm lực nâng, nhờ đó Predator có thể đạt độ cao hơn 7500 m. Phần thân khá mảnh mai với đuôi cánh phía sau có hình chữ V ngược giúp máy bay ổn định. Động cơ cánh quạt được đặt sau cùng với một bánh lái nằm phía dưới, ngay giữa phần đuôi cánh sau.
     

     
    Thân máy bay được làm từ hỗn hợp sợi carbon và kevlar (chất liệu thường được dùng trong áo giáp trống đạn). Bên dưới phần thân máy bay được bọc thêm các lớp nomex (vật liệu làm từ bọt gỗ ép, sử dụng trong quần áo lính cứu hỏa) nhằm cách nhiệt cho máy bay. Phần khung được làm từ sợi thủy tinh và sợi carbon, còn phần vỏ bên ngoài cùng được phủ 1 lớp nhôm.
     

     
    Các cánh tà và cánh liệng trên cánh chính được phủ 1 lớp titan, ngoài ra còn một hệ thống có thể phun chất ethylene glycol lên cánh may bay giúp làm tan băng khi bay qua các vùng khí hậu khắc nghiệt.
     
    Trên Predator được trang bị cả hệ thống sử dụng nhiên liệu cho đến máy phát và cả pin Ni-Cad dự phòng, do đó mà thời gian hoạt động của nó lên đến hơn 20 giờ.
     
    Cấu tạo bên trong
     
    Khác với các loại máy bay thông thường, cấu tạo bên trong của Predator gần giống với một chiếc siêu máy bay điều khiển từ xa, với các thiết bị cơ bản và khá nhỏ gọn. Điều này phù hợp với thiết kế phần thân máy bay khá nhỏ và mục đích sử dụng chính vẫn là trinh sát. Dưới đây là một số bộ phận chính:
     

     
    1: Hệ thống radar SAR.  2: Thiết bị GPS, xác đinh tọa độ.  3: Thiết bị truyền tính hiệu đến vệ tinh.  4: Hộp đen.  5: Ăng ten GPS (trái và phải).  6: APX-100 nhận dạng kẻ địch.  7: Bộ xử lý thông tin và truyền về vệ tinh.  9: Thúng nhiên liệu phía trước.  10: Thúng nhiên liệu phía sau.  11: Khoang chứa phụ tùng.  12: Quạt làm mát động cơ.  13: Khoang chứa dầu tản nhiệt.  14: Động cơ chính.  15: Motor phụ. 16,18: Bộ pin Ni-Cad.  17: Máy phát điện dự phòng.  19: Khoang chứa phụ tùng ở đuôi.  20: Bộ kiểm soát Mô đun thứ cấp.  22: Bộ kiểm soát Mô đun chính.  23: Bộ cảm biến đơn vị bay.  24: Thiết bị lưu trữ hình ảnh.  27: Bộ điều khiển thiết bị làm tan băng (trên vỏ máy bay).  28: Bộ thu tín hiệu tầm gần.  29: Bộ thu tín hiệu tầm xa (tín hiệu từ vệ tinh).  30: Bộ cảnh báo khi vỏ máy bay bị đóng băng.  32: Camera.
     
    RQ-1, gián điệp trên bầu trời
     
    RQ-1 là phiên bản Predator đầu tiên, nó không được trang bị vũ khí và chỉ có nhiệm vụ trinh sát, do thám tình hình trước khi triển khai quân đội. Do có thiết kế phần thân nhỏ gọn, cùng vật liệu siêu nhẹ nên RQ-1 có khả năng mang thêm 204 kg nhiên liệu (khoảng 380 lít). Việc đem được lượng nhiên liệu lớn đồng nghĩa với phạm vi hoạt động rộng, cùng kích thước khá nhỏ và vận hành từ xa là những ưu điểm nổi bật của chiếc UAV này. RQ-1 có thể bay trinh sát trong vòng 24 h mới cần nạp nhiên liệu.
     

     
    RQ-1 được trang bị những thiết bị giám sát hiện đại nhất. Với camera chính ở phía trước có góc quay rộng được sử dụng để xác định các mục tiêu. Camera có thể thay đổi độ mở ống kính, thu lại hình ảnh với màu sắc chân thực nhất. Ngoài ra còn có một cảm biến bằng hồng ngoại, có thể ghi lại hình ảnh với ánh sáng thấp khi bay vào ban đêm. Radar SAR có thể nhìn thấy trong điều kiện thời tiết xấu như mây mù, khói...
     

     
    Các hình ảnh từ camera cho phép xác định chính xác vị trí của đối phương với góc quan sát rất rộng, từ đó các chỉ huy sẽ có sự điều khiển quân đội hợp lý. Nhờ những thông tin này mà chỉ huy trên chiến trường có thể đưa ra quyết định một cách nhanh chóng, nắm rõ sự bố trí cách di chuyển của quân địch là đã có trong tay 50 % chiến thắng. Và lợi thế lớn nhất khi sử dụng Predator là không cần phi công, do đó sẽ không có những lo ngại về rò rỉ những bí mật quân sự khi phi công bị bắt, nếu như chiếc máy bay bị phát hiện và bắn hạ.
     
    MQ-1, con "quái vật" nhỏ trên bầu trời
     
    Sau cuộc chiến tranh tại Kosovo năm 1999, Không Quân Hoa Kỳ bắt đầu các thử nghiệm trang bị hỏa lực cho Predator RQ-1. RQ-1 được gia cố lại phần cánh để có thể lắp thêm 2 tên lửa Hellfire, phần camera phía trước cũng được bổ xung thêm hệ thống ngắm bắn và dẫn đường bằng lase (MTS). Đến năm 2001, các mẫu Predator được trang bị vũ trang, MQ-1 chính thức được đem vào thực chiến.
     

     
    "M" là ký hiệu của Bộ Quốc Phòng Mỹ để xác định loại máy bay đa chức năng. Với việc được trang bị hệ thống tên lửa mới, MQ-1 không chỉ là một máy bay trinh sát, nó còn là một cỗ máy giết người từ xa, một thợ săn hoàn hảo. Sức mạnh của quân đội Hoa Kỳ được tăng lên đáng kể khi MQ-1 được đưa vào thực chiến, nó giúp quân đội tấn công vào nhiều khu vực nguy hiểm mà không mất một người lính nào.
     

     
    Hệ thống vũ khí của MQ-1 được bổ xung bao gồm 2 tên lửa AGM-114 Hellfire, hệ thống hồng ngoại, hệ thống lase MTS. MQ-1 xác định mục tiêu bằng cách phóng ra một tia lase dẫn đường từ thiết bị MTS gần mũi máy bay. Tia lase này có thể được sử dụng trong 2 cách:
    • Các tia này được chiếu vào mục tiêu sau đó phản hồi đến các thiết bị thu tín hiệu trên mỗi tên lửa Hellfire, dẫn đường cho tên lửa.
    • Các tia này phát ra đồng thời đo khoảng cách, hướng di chuyển. Từ đó các máy tính trung tâm sẽ phân tích và phát lệnh điều khiển cho tên lửa đến mục tiêu.

    Trên MQ-1 cũng có nhiều thiết bị cảm biến, tính toán vị trí hướng di chuyển, tốc độ gió và nhiều cảm biến khác giúp thu thập nhiều thông tin chi tiết trên chiến trường. Các thông tin này vô cùng cần thiết cho các đơn vị tác chiến khác bên cạnh MQ-1, do đó MQ-1 còn được ví như chú chó bên cạnh gã thợ săn.
     
    Điều khiển một chiếc Predator
     
    Việc điều khiển một chiếc Predator giống như điều khiển một hệ thống hơn là một chiếc máy bay. Hệ thống này bao gồm một trạm kiểm soát mặt đất, một khu điều khiển nơi phi công điều khiến chiếc Predator từ xa, một hệ thống thông tin liên lạc, một vệ tinh và một chiếc Predator.
     
    Trên mặt đất, có khoảng 80 nhân viên kỹ thuật cùng làm việc để đảm bảo hệ thống hoạt động. Đội ngũ này có thể điều khiển 4 chiếc Predator cùng lúc, trong khoảng thời gian 20 giờ và bán kính hoạt động gần 1000 km.
     

     
    Một chiếc Predator có thể bay dưới sự điều khiển của đội ngũ phi công gồm 1 người điều khiển và 2 người phân tích thông tin. Phi công điều khiển qua một màn hình điện từ với cần lái giống như mô phỏng một chiếc máy bay thật, chiếc Predator sẽ nhận tín hiệu điều khiển bằng bộ thu tín hiệu tầm gần. Khi chiếc Predator bay ra ngoài phạm vi thu tín hiệu, các tín hiệu này sẽ được truyền lên vệ tinh và được Predator tiếp nhận qua bộ thu tín hiệu tầm xa.
     

     
    Các hình ảnh từ camera và thông tin từ cảm biến cũng được truyền về theo cách tương tự. Predator còn có chế độ bay tự động theo lập trình sẵn, trong những nhiệm vụ đơn giản như bay trinh sát địa hình.
     
    Thực chiến
     
    Tính tác chiến hiệu quả của những chiếc MQ-1 đã được khẳng định trong nhiều cuộc chiến tranh và xung đột tại Kosovo, Iraq, Afghanistan, Yemen, Balkan, Libya...
     

     
    Afghanistan: Vào tháng 2 năm 2002, 1 chiếc MQ-1 đã tấn công vào một đoàn xe SUV mà nghi ngờ có lãnh đạo Taliban Mullah Mohammed Omar. Ngày 04 tháng 3 năm 2002, Predator của CIA đã bắn một tên lửa Hellfire vào một hầm Taliban trên đỉnh núi Takur Ghar ở Afghanistan. Những nỗ lực trước đây của các các mẫu máy bay chiến đấu F-15 và F-16 là không thể để tiêu diệt các hầm ngầm trên vùng núi hiểm trở .
     
    Iraq: Trong giai đoạn đầu cuộc xâm lược Iraq của Mỹ năm 2003, các Predator đã tham gia vào hơn 242 cuộc tấn công riêng biệt,  khảo sát 18.490 mục tiêu, đã bắn hơn 60 tên lửa Hellfire, tiêu diệt 4 đoàn xe hộ tống, và đã bay 2.073 lần cho các nhiệm vụ với hơn 33.833 giờ bay.
     
    Yemen: Tháng 11 năm 2002, một chiếc MQ-1 đã bắn tên lửa Hellfire vào một chiếc xe hơi tại Yemen , giết chết Qaed Salim Sinan al-Harethi , một nhà lãnh đạo Al-Qaeda được cho là chịu trách nhiệm về vụ đánh bom tàu USS Cole . Đó là cuộc tấn công trực tiếp đầu tiên của Mỹ trong chiến tranh chống khủng bố bên ngoài Afghanistan. Ngày 30 tháng 9 năm 2011, một Hellfire được bắn từ một MQ-1 của Mỹ giết chết Anwar al-Awlaki , một công dân Mỹ, giáo sĩ và lãnh đạo Al Qaeda tại Yemen.
     
    Libya: MQ-1 của Không Quân Mỹ đã tham gia vào phi vụ trinh sát và tấn công trong hoạt động Thống nhất và bảo vệ Libya.  Ngoài ra còn có một số thông tin cho rằng Predator của Mỹ đã tham gia vào cuộc tấn công cuối cùng chống lại Gaddafi.
     
    Tương lai
     
    Các mẫu Predator mới của Mỹ vẫn luôn được nghiên cứu và phát triển. Bằng cách tăng chiều dài sải cánh lên 26 m, tầm hoạt động của chúng sẽ được tăng lên đáng kể (độ cao có thể đạt gần 16000 m). Mẫu Predator mới nhất đang được nghiên cứu là MQ-9, nó sẽ được sử dụng cho mục đích hòa bình trong việc nghiên cứu bầu khí quyển. Hải quân Mỹ cúng đang nghiên cứu những mẫu Predator trinh sát của riêng họ.
     
    MQ-9 Predator.
     
    Hiện nay Mỹ là nước đi tiên phong trong việc phát triển các mẫu UAV, tuy nhiên không phải là duy nhất. Các nước Tây Âu vẫn luôn nghiên cứu và phát triển công nghệ máy bay không người lái của riêng mình. Nga và  Trung Quốc cũng là 2 ông lớn đáng gớm trong việc phát triển các UAV của tương lai.
     
    Theo trung tâm phân tích SAMTO, các UAV trong tương lai vẫn sẽ tập trung vào mục tiêu trinh sát hơn là trang bị vũ trang tối tân. Việc giảm kích thước và tăng thời gian, phạm vi hoạt động sẽ được chú trọng. Bên cạnh đó là tăng góc quan sát điện tử quang học/hệ thống hồng ngoại, xác định các mục tiêu ẩn trong các tòa nhà hoặc rừng rậm. Việc áp dụng các công nghệ máy bay tàng hình cũng rất được quan tâm, biến những chiếc UAV trở thành những tên gián điệp thực sự trên bầu trời.
     
    Tham khảo HowStuffWork
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
     
    Tin cùng chuyên mục
    Xem theo ngày

    NỔI BẬT TRANG CHỦ