Cho đến khi công bố sản phẩm tablet đầu tiên do chính tay mình thiết kế và phát triển, Microsoft, thương hiệu sản xuất và gia công phần mềm lớn nhất thế giới vẫn luôn trung thành với chiến lược riêng của mình trong quá khứ: Xây dựng nền tảng phầm mềm sau đó cung cấp tới các đối tác sản xuất phần cứng. Công ty do Bill Gates sáng lập vẫn giữ vững quan điểm về chiến lược khi bắt đầu tấn công vào thị trường di động với hệ điều hành Windows Phone. Google cũng đã "bắt chước" theo cách làm này Microsoft để áp dụng cho nền tảng đi dộng Android của mình.
Và có vẻ như chiến lược này đang dần dần trở nên lỗi thời cũng như không hiệu quả trong thời đại ngày nay khi mà Google cũng đang chuyển hướng sang chiến lược khép kín kinh doanh như của Apple với động thái mua lại Motorola Mobility còn Microsoft cũng đang manh nha học đòi tự sản xuất phần cứng với Surface. Chiến lược của Apple chỉ được ví như trò hề vào những năm 80 của thế kỷ trước nhưng nay nó lại đang trở thành xu thế trong thời đại di động.
Hiển nhiên là cái gì cũng có hai mặt của nó, chiến lược của Microsoft và Apple cũng vậy. Mô hình của Microsoft có thể gảm bớt được chi phí cũng như tiếp cận thị trường tốt hơn nhưng lại gây ra sự sai khác giữa các linh kiện phần cứng từ đó làm giảm hiệu năng trên các sản phẩm. Trong khi sự đóng gói thương hiệu bằng cách sản xuất thiết bị và gia công phần mềm như của Apple lại giảm thiểu được vấn đề này tuy chi phí bị đội lên rất nhiều và cách quản lý thì rất phức tạp.
Nhận định về quan điểm này, một cựu giám đốc của HP cho hay: Máy tính bảng thương hiệu HP có thiết kế dày và sử dụng vi xử lý của Intel nhanh nóng cùng một số sai khác nhỏ giữa phần cứng và phần mềm là yếu tố gây ra sự sụt giảm về hiệu năng trên các thiết bị của chúng tôi đơn cử như hiện tượng lag khi người dùng sử dụng màn hình cảm ứng. Điều đó giống như là lái một chiếc xe và chiếc xe không chạy khi chúng ta khởi động."
Vấn đề ở đây là tại sao mô hình kinh doanh của Apple trên các thiết bị di động ngày nay lại đang thắng thế trong khi chiến lược của Microsoft trong những năm 90 áp dụng cho ngành công nghiệp PC lại thành công rực rỡ. Câu hỏi đó có thể được trả lời một cách rõ ràng hơn thông qua học thuyết công nghệ đột phá của nhà phân tích Clay Christensen. Công nghệ đột phá ám chỉ sự đổi mới nhằm phát triển một sản phẩm hoặc một công nghệ mới ngoài sự mong đợi của thị trường và đem lại những sự thay đổi lớn như thị trường như giảm giá bán, hoặc hướng tới 1 thị trường mới. Sự phát triển của công nghệ đột phá được mô tả bằng đồ thị hinh như dưới đây.
Đồ thị công nghệ đột phá của Clay Christensen.
Theo Clay Christensen, công nghệ đột phá sẽ có sức phát triển nhanh hơn hẳn so với công những loại hình công nghệ khác với một khoảng thời gian hẹp hơn được thể hiện qua đường màu đen. Thông thường, khi một thiết bị đáp ứng đủ tốt với hầu hết những nhu cầu của người dùng ( giao của đường màu đen và đường màu tím) thì họ sẽ không dại gì mà bỏ thêm tiền ra để mua về phiên bản nâng cấp của thiết bị đó nếu không có một công nghệ thực sự đột phá có thể làm tăng thêm nhu cầu cho thị trường. Tất nhiên để nghiên cứu ra một công nghệ đột phá như vậy khoảng thời gian đầu tư nghiên cứu sẽ không phải là nhỏ.
Chính vì thế mà các công ty thường sẽ không thực hiện nâng cấp nhiều cho sản phẩm của mình bởi nó sẽ gây ra tình trạng lãng phí. Và khi đó thì họ sẽ tập trung vào việc nâng cao tính tương thích cho các sản phẩm qua đó là giảm mức giá bán nhắm tăng doanh thu. Đó chính là những gì mà Apple đã thực hiện trong ngành công nghiệp di động.
Theo dự đoán của Clay Christensen thì khoảng 5 năm nữa tablet và smartphone mới có đủ sức mạnh và các tính năng mới hơn để thay thế phần lớn công việc của PC và laptop. Khi đó công nghệ đột phá sẽ lại chuyển dịch sang những thứ cần thiết hơn và người dùng sẽ sẵn lòng bỏ tiền ra cho những nâng cấp nhỏ như vi xử lý tốc độ cao hơn, dung lượng pin lớn hơn.
Tham khảo: Cdixon