Chuyện lạ ở đất nước có nhiều ngân hàng nhất thế giới: Ngồi im cũng 'trúng đạn' vì ... trùng tên với nhà băng vừa phá sản

    Thu Hương, Nhịp sống thị trường 

    Theo số liệu của Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC), hiện Mỹ có hơn 4.100 ngân hàng thương mại. Trong khi Anh chỉ có 353 ngân hàng, Đức có 261 ngân hàng.

    Hôm 21/3, sau khi Signature Bank – 1 ngân hàng có trụ sở ở New York City, bị buộc phải đóng cửa, có 4 ngân hàng khác đã phải lên tiếng thanh minh rằng họ không có liên quan gì đến vụ sụp đổ này dù có cái tên giống hệt. Tương tự, khi ngân hàng First Republic Bank ở California được các ngân hàng lớn bơm 30 tỷ USD nhưng cũng sụp đổ vài tuần sau đó, một số nhà đầu tư đã lại bán tháo cổ phiếu của Republic First Bancorp. Sự nhầm lẫn vì tên gọi giống nhau đã khiến cổ phiếu của ngân hàng ở Philadelphia sụt giảm 28%.

    Sở dĩ xuất hiện nhiều trường hợp gây bối rối đến vậy là bởi vì nước Mỹ có quá nhiều ngân hàng. Theo số liệu của Cơ quan bảo hiểm tiền gửi liên bang (FDIC), hiện Mỹ có hơn 4.100 ngân hàng thương mại. Trong khi Anh chỉ có 353 ngân hàng, Đức có 261 ngân hàng. Tại sao Mỹ lại có nhiều ngân hàng đến vậy?

    Nguyên nhân lớn nhất khiến hệ thống ngân hàng Mỹ trở nên phân mảnh có gốc gác từ những luật lệ có từ thế kỷ 19. Đó là những quy định giới hạn phạm vi hoạt động của các ngân hàng, thay đổi theo từng bang. Một số bang cho phép các ngân hàng mở chi nhánh tại bất kỳ đâu trong bang, nhưng ở một số nơi các chi nhánh ngân hàng chỉ được phép hoạt động trong thành phố hoặc hạt mà họ đặt trự sở. Một số bang cấm ngân hàng của bang khác đến hoạt động.

    Chuyện lạ ở đất nước có nhiều ngân hàng nhất thế giới: Ngồi im cũng 'trúng đạn' vì ... trùng tên với nhà băng vừa phá sản - Ảnh 1.

    Mục đích của những quy định này là để ngăn các ngân hàng trở nên quá quyền lực. Tuy nhiên, theo như Randall Kroszner, giáo sư đang công tác tại trường kinh doanh Booth thuộc ĐH Chicago, đầu những năm 1800, khi các luật lệ bắt đầu nở rộ, các bang đã kiếm được nguồn thu rất lớn nhờ cổ tức và tiền nộp thuế từ các ngân hàng. Do đó họ có xu thế bảo hộ cho các ngân hàng của bang mình.

    Đến những năm 1970, các bang bắt đầu dỡ bỏ những quy tắc này. Và với sự nổi lên của những công nghệ và những sản phẩm tài chính mới – trong đó có máy ATM, các quỹ tương hỗ thị trường tiền tệ và hệ thống chấm điểm tín dụng được cải tiến vượt bậc, những ngân hàng ở xa cũng có thể cung cấp các dịch vụ tài chính mà trước đây chỉ có những ngân hàng ở địa phương mới có.

    Năm 1978, Maine trở thành bang đầu tiên chấp nhận các ngân hàng của bang khác. Đến năm 1994, tất cả các bang trừ Hawaii áp dụng luật tương tự. Cùng năm đó, chính phủ thông qua luật liên bang dỡ bỏ hoàn toàn các giới hạn địa lý còn lại.

    Điều này dẫn đến ngành ngân hàng Mỹ co hẹp đáng kể. Năm 1983, Mỹ có gần 14.500 ngân hàng thương mại. 2 thập kỷ sau con số đã giảm xuống còn 7.700 và 20 năm sau con số tiếp tục giảm mạnh.

    JPMorgan Chase, Bank of America, Citigroup và Wells Fargo – hiện đang thống trị hệ thống ngân hàng Mỹ. Là 4 ngân hàng lớn nhất, họ đang nắm giữ 42% tổng tài sản của toàn ngành, tăng mạnh so với tỷ lệ 11% ở thời điểm năm 1990. Tuy nhiên địa lý vẫn đóng vai trò quan trọng trong quyết định lựa chọn sẽ vay tiền từ ngân hàng nào của các hộ gia đình và doanh nghiệp.

    Những ngân hàng nhỏ của địa phương vẫn thường được các doanh nghiệp nhỏ lựa chọn đơn giản vì họ muốn chọn những ngân hàng mà mình hiểu rõ. Theo FDIC, các ngân hàng cộng đồng (community bank) với tài sản từ 10 tỷ USD trở xuống chỉ chiếm 15% tổng dư nợ cho vay nhưng lại chiếm tới 30% dư nợ cho vay bất động sản thương mại, 31% dư nợ cho vay nông nghiệp và 36% các khoản vay dành cho doanh nghiệp nhỏ.

    Cuộc khủng hoảng gần đây có thể khiến mạng lưới ngân hàng Mỹ co hẹp hơn nữa. Năm 2018, Quốc hội Mỹ đã thông qua luật nhằm nới lỏng quy định quản lý các ngân hàng nhỏ. Theo đó các ngân hàng có tài sản từ 250 tỷ USD trở lên (thay vì 50 tỷ USD như trước đó) mới phải áp dụng những quy định quản lý chặt chẽ nhất, đồng nghĩa các ngân hàng cỡ trung sẽ được miễn trừ khỏi một số yêu cầu về vốn, thanh khoản cũng như các bài kiểm tra áp lực.

    Tuy nhiên, sau cuộc khủng hoảng vừa qua mà chủ yếu là các ngân hàng tầm trung gặp rắc rối, các nhà hoạch định chính sách đang xem xét quay về ngưỡng 50 tỷ USD, tức sẽ có thêm khoảng 30 định chế tài chính bị quản lý chặt chẽ hơn. Nếu điều này chính thức xảy ra, nhiều ngân hàng sẽ buộc phải sáp nhập với ngân hàng khác để thích nghi. Kết quả là nước Mỹ sẽ có ít ngân hàng hơn, và nếu may mắn thì sẽ ít gặp khủng hoảng hơn.

    Tham khảo The Economist

    Tin cùng chuyên mục
    Xem theo ngày

    NỔI BẬT TRANG CHỦ