Đội tuyển bóng đá quốc gia Việt Nam sẽ xếp hạng 32 FIFA, và chúng ta sẽ cổ vũ đội nhà ngay trong World Cup tới.
- Khoa học chứng minh: Amber Heard mới là mỹ nhân có gương mặt đẹp nhất thế giới, tỷ lệ hoàn hảo đến tận 99,7%
- Kỹ sư mở tiệm sửa xe thu 4 tỷ/năm lên Shark Tank gọi vốn: "Tôi muốn cả thế giới biết Việt Nam là ai!"
- Tại sao nam giới thích để điều hòa lạnh sâu, còn phụ nữ thì không?
- Đi tìm người phụ nữ đầu tiên của nhân loại, dưới cái nhìn từ tôn giáo đến khoa học!
Đó là một buổi chiều tháng 8 mùa thu, Jane Pearson cùng chồng và cậu con trai 5 tuổi của mình đang tận hưởng kỳ nghỉ cắm trại tại một khu rừng ở California. Vì họ đã kịp dựng xong lều trước khi hoàng hôn buông xuống, Jane quyết định mình sẽ chợp mắt ngủ một lúc.
Nhưng giống như tất cả mọi người đều mất ý thức về thời gian khi ngủ dậy, Jane không biết một lúc của cô đã kéo dài trong bao lâu. Cô chỉ biết khi mình tỉnh dậy trên chiếc vòng mắc bên ngoài túp lều, chồng và cậu con trai của cô đã không còn ở trong đó nữa.
Ban đầu, Jane chỉ nghĩ rằng họ đã đi đâu đó để khám phá khu rừng. Nhưng khi cả hai không quay lại vào bữa tối, cô biết có điều gì đó không hay đã xảy ra. Cô chờ đợi và tìm kiếm trong vô vọng, trước khi quyết định xuống núi để cầu cứu một ai đó.
Nhưng cũng chính tại thời điểm Jane bước chân trở lại thế giới, cô nhận ra một sự thật khủng khiếp: Hóa ra không chỉ có chồng và con trai cô, mà tất cả những người đàn ông, những người mang nhiễm sắc thể Y trên Trái Đất đều đã biến mất – điều đó có nghĩa là cả các bào thai trong bụng mẹ và những người đàn ông chuyển giới.
Mọi chuyện xảy ra chỉ sau một khoảnh khắc, khi Jane chợp mắt trên chiếc võng bên ngoài lều của mình.
Đó là phần mở đầu của The Men, cuốn tiểu thuyết mới được xuất bản của nhà văn người Mỹ Sandra Newman. Câu chuyện dẫn dắt chúng ta theo chân Jane Pearson để tìm hiểu cách mà thế giới vận hành khi tất cả đàn ông đột nhiên biến mất.
Chắc chắn, tất cả đã rơi vào một khoảng thời gian hỗn loạn. Những người phụ nữ đã phải học cách tiếp quản mọi công việc mà những người đàn ông đã bỏ lại, từ thợ điện, công nhân vệ sinh môi trường, lính cứu hỏa, phi công, cho đến những người điều hành doanh nghiệp và bộ máy chính trị.
Nỗi đau mất đi người thân của mình luôn thường trực và ám ảnh những người phụ nữ ở lại. Nhưng thời gian cũng dần chứng minh, nó không đủ để kìm chân họ đi tới một tương lai tươi sáng hơn.
"Trong một khoảnh khắc, tôi đã bị choáng ngợp với ý nghĩ về một thế giới không còn đàn ông nữa. Cảm giác thật ngọt ngào và kỳ diệu: Đó là một thế giới chỉ có những con cừu non mà không có con sói nào nữa cả", Jane nghĩ.
Từ bây giờ, những người phụ nữ như cô sẽ không phải mang theo bình xịt hơi cay vào ban đêm. Họ cũng không còn phải sợ những người chồng vũ phu của mình ở nhà. Bạo lực và chiến tranh cũng biến mất theo những gen hiếu chiến gắn với nhiễm sắc thể Y.
Một thế giới không có đàn ông sẽ trở nên hòa bình và thịnh vượng. Những người phụ nữ vẫn có thể phát triển một công nghệ sinh sản, cho phép họ tự tạo ra những đứa con của riêng mình.
Vì vậy, sự biến mất của tất cả đàn ông không đồng nghĩa với sự kết thúc của nhân loại. Nhưng liệu thế giới ấy có tốt hơn như cách mà Jane nghĩ hay không?
Một thế giới đơn tính, trinh sản là khả thi về mặt lý thuyết
Mùa hè năm 1962, tại thị trấn Hillston, Australia, nhà di truyền học và sinh học tiến hóa lỗi lạc người Anh, Michael White cũng đang trong một chuyến cắm trại với cậu con trai nhỏ của mình.
Cậu bé Nichonas bắt về được một đám châu chấu. Thoạt đầu thì White chẳng để ý đến chúng lắm, nhưng khi Nichonas bắt đầu hỏi ba mình "Những con châu chấu này là châu chấu đực hay cái?", White bất ngờ nhận ra tất cả chúng đều là châu chấu cái.
Ông ra khỏi lều của mình và thực hiện một khảo sát nhỏ, đủ để nhận thấy toàn bộ cánh đồng ở Hillston chỉ có toàn châu châu cái. Những con châu chấu xanh này thuộc vào giống Warramaba virgo, một loài lai giữa châu chấu Warramaba whitei và Warramaba flavolineata, và đã sống cách thời điểm hiện tại ít nhất 250.000 năm.
Châu chấu W. virgo thường sống ở các vùng hoang mạc khô cằn phía nam Australia, nơi chúng ăn các cây dâu tằm và các loại cây bụi và bụi rậm khác vào mùa hè. Cả hai loài bố mẹ của nó, W. whitei và W. flavolineata đều là loài sinh sản hữu tính, nghĩa là chúng có con đực và con cái.
Nhưng đến W. virgo, loài châu chấu này lại trở thành một loài trinh sản, nghĩa là chúng chỉ có con cái mà không có con đực.
Đúng như tên gọi của nó, trinh sản (Parthenogenesis) là một hình thức sinh sản vô tính, trong đó phôi của một loài vật có thể sinh trưởng và phát triển mà không cần tinh trùng thụ tinh.
Để có thể trinh sản, những con cái trong một loài vật đồng trinh sẽ sao chép nhiễm sắc thể của chính nó lên thành 4 bản. Tiếp theo, nó lại lấy vật chất di truyền từ 4 nhiễm sắc thể, trộn lên để tạo ra 4 nhiễm sắc thể có DNA hỗn hợp thông qua quá trình gọi là tái tổ hợp.
Động tác xáo trộn hay sự cải tổ di truyền này để đảm bảo con cái của chúng được sinh ra sẽ có khác biệt so với mẹ mình, không phải một bản sao 1:1. Tuy nhiên, vì các nhiễm sắc thể của trứng không thụ tinh sẽ không có vật liệu di truyền mới của con trống được thêm vào, chúng sẽ giống hệt nhau theo từng cặp.
Trước đây, các nhà khoa học cho rằng trinh sản là một loại hình sinh sản đi ngược lại với tiến hóa. Bởi sự tái tổ hợp không diễn ra, nó có thể làm suy giảm 1/3 sự đa dạng di truyền trong mỗi lứa, tương tự như quá trình giao phối cận huyết.
Vì vậy, chỉ cần một vài thế hệ trôi qua, mức độ da dạng di truyền của loài trinh sản sẽ thấp đến nỗi con non của chúng không còn đủ khỏe để sống đến tuổi trưởng thành. Thế hệ tiếp theo vì vậy sẽ không ra đời, và loài trinh sản sẽ tuyệt chủng.
Thế nhưng, thực tế đang cho thấy các loài trinh sản có thể tiến hóa theo những con đường khác nhau để loại bỏ nhược điểm này.
Ví dụ, trong một nghiên cứu vào năm ngoái, các nhà khoa học tại Đại học Sydney đã phát hiện ra một loài ong mật ở Nam Phi có khả năng đột biến, cho phép chúng đẻ trứng dị hợp di truyền với tất cả các vật chất di truyền từ 4 nhiễm sắc thể.
Nói cách khác, chúng không loại bỏ bất kỳ nhiễm sắc thể nào trong số đó nên có thể ngăn chặn sự mất đa dạng di truyền qua từng thế hệ.
Những con châu chấu xanh W. virgo ở Australia cũng vậy, chúng đã tồn tại ít nhất 250.000 năm do tính đa dạng di truyền được thúc đẩy bởi các phép lai lặp đi lặp lại giữa hai loài bố mẹ. Điều này có thể tạo ra một đội quân các dòng vô tính khác nhau trong một hiện tượng được gọi là "sức sống lai".
Ví dụ như khi lai giữa ngựa và lừa, bạn sẽ được con la có sức mạnh và cả sức bền cao hơn hai loài bố mẹ. Nhưng khác với la không thể sinh sản được, những con châu chấu W. virgo vẫn có thể trinh sản để tạo ra con cái.
Nhiều loài giun tròn, gấu nước, ong, một số loài cá, lưỡng cư và bò sát ngoài tự nhiên cũng chọn hình thức sinh sản này. Năm ngoái, các nhà khoa học còn phát hiện những con kền kền mái bị nhốt trong Vườn thú San Diego cũng đang sinh sản mà không cần đến con trống.
Nhiễm sắc thể Y của con người cũng đang dần biến mất
Trở lại với sự biến mất của tất cả đàn ông trên Trái Đất trong The Men, mọi thứ đã xảy ra giống như đã có một cú búng tay từ Thanos. Hoặc một người phụ nữ nào đó bị phản bội, tìm được cây đèn thần và ước rằng cô ấy muốn có một thế giới không còn đàn ông.
Trên thực tế, kịch bản đó khó lòng có thể xảy ra nếu khoa học còn đứng vững trước những phép màu. Nhưng nó cũng không có nghĩa là toàn bộ đàn ông trên Trái Đất không thể biến mất. Tiến hóa cũng có thể thực hiện một cú búng tay của riêng mình. Chỉ có điều, từ khi cú búng tay đó được thực hiện cho đến khi tất cả đàn ông trên thế giới đều tuyệt chủng sẽ phải mất hàng triệu năm.
Điều này được suy ra từ những phát hiện của các nhà khoa học, khi quan sát nhiễm sắc thể Y của con người, họ nhận thấy nhiễm sắc thể Y đang teo nhỏ.
Quay trở lại 166 triệu năm trước, khi sinh vật có vú đầu tiên ra đời, chúng đã mang một nhiễm sắc thể Y "nguyên bản", có kích thước ngang với nhiễm sắc thể X. Hai nhiễm sắc thể giới tính này cũng chia sẻ các gen giống hệt nhau.
Tuy nhiên, nhiễm sắc thể Y có một lỗ hổng cơ bản. Không giống như tất cả các nhiễm sắc thể khác đều có hai bản sao trong mỗi tế bào của chúng ta, nhiễm sắc thể Y chỉ có một bản duy nhất, được truyền từ người cha sang người con.
Điều này có nghĩa là các gen trên nhiễm sắc thể Y không thể được tái tổ hợp, quá trình "xáo trộn" các gen xảy ra trong mỗi thế hệ giúp loại trừ các đột biến gen gây hại. Không có khả năng tái tổ hợp, các gen của nhiễm sắc thể Y bị thoái hóa theo thời gian khiến kích thước của nó ngắn dần.
Bây giờ khi bạn nhìn vào cặp nhiễm sắc thể XY ở đàn ông so với XX của phụ nữ, bạn sẽ thấy một bên bị nhỏ hẳn lại. Và sự suy thoái này thậm chí chưa dừng lại. Các nhà khoa học dự đoán với tốc độ mất gen như hiện tại, khoảng 4,6 triệu năm nữa nhiễm sắc thể Y của con người sẽ hoàn toàn biến mất.
Tin tốt là trong khi nhiễm sắc thể Y cần thiết cho sự sinh sản bình thường của chúng ta, rất nhiều gen mà nó đang mang thực ra chẳng làm nhiệm vụ gì trong cơ thể. Chúng hoàn toàn có thể bị thay thế bằng cách sử dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản trên cơ thể phụ nữ.
Điều này có nghĩa là kỹ thuật di truyền có thể thay thế chức năng gen của nhiễm sắc thể Y, cho phép phụ nữ có thể sinh sản mà không cần có đàn ông. Khoa học có thể chọn trinh sản, hoặc thậm chí tái tổ hợp các nhiễm sắc thể X với nhau.
Tại Nhật Bản, các nhà khoa học đã chuyển đổi thành công tế bào gốc từ một con chuột cái thành tế bào tinh trùng. Những tế bào tinh trùng sau đó đã giúp một con chuột cái khác mang thai.
Nếu công nghệ này có thể được hoàn thiện cho con người, những đứa trẻ có thể sinh ra từ hai người mẹ. Những mô hình gia đình truyền thống vẫn có thể được duy trì nếu họ sử dụng hình thức sinh sản này. Và nó thậm chí còn đem lại một số lợi thế về mặt tiến hóa.
Sinh sản không phụ thuộc vào giới tính sẽ xóa bỏ một thứ mà các nhà khoa học gọi là "sự lãng phí của tiến hóa". Trong đó, một loài trinh sản có 100% các cá thể có khả năng tự tạo ra con cái, so với tỷ lệ chỉ 50% nếu chúng phân chia theo giống đực và giống cái.
Trinh sản cũng sẽ loại bỏ hoạt động quan hệ tình dục, xóa bỏ cái gọi là "two-fold cost of sex", hay chi phí giới tính gập đôi. Các loài động vật sẽ không phải trả năng lượng và thời gian cho việc đi tìm một đối tác sinh sản, hay tốn calo cho các hoạt động tình dục.
Trên thực tế, trong quá trình hai con vật dị tính giao phối, chúng cũng thường có nguy cơ cao hơn bị những kẻ săn mồi tấn công.
Vì vậy, các nhà khoa học sẽ không quá ngạc nhiên khi các loài sinh vật có thể tiến hóa đến việc loại bỏ giới tính và tình dục để sinh sản. Họ chỉ tự hỏi tại sao thế giới chưa có nhiều loài trinh sản hơn, bao gồm cả con người?
Nhưng liệu một thế giới không có đàn ông có tốt đẹp hơn không?
Ý tưởng của những ý tưởng cho rằng một thế giới không có đàn ông sẽ trở nên hòa bình và thịnh vượng hơn gắn liền với một giả thuyết được gọi là "The Bonobo Thesis".
Chúng ta biết bonobo là những con tinh tinh lùn sống ở Congo, chia sẻ tới 99% DNA với con người và là một trong những họ hàng gần nhất còn sống của chúng ta cùng với tinh tinh.
Chỉ có một điều khác, bonobo tổ chức xã hội của chúng theo lối mẫu hệ. Và việc những con bonobo cái lãnh đạo nhóm của mình đã làm giảm tỷ lệ bạo lực. Các cuộc chiến tranh giành quyền lực, thức ăn, con cái và lãnh thổ cũng ít xảy ra hơn khi so sánh với các nhóm tinh tinh bình thường.
Vì vậy, nếu chúng ta sử dụng giả thuyết Bonobo, có vẻ như một hành tinh chỉ có phụ nữ sẽ trở nên yên ổn và hòa bình hơn. Sẽ không có chiến tranh khi những người phụ nữ lãnh đạo thế giới. Quân đội của hầu hết các quốc gia sẽ giảm xuống chỉ còn 1/10 nếu những người đàn ông biến mất (ngoại trừ Triều Tiên bởi quốc gia này có tới 40% quân nhân là nữ giới).
Tuy nhiên, giả thuyết Bonobo chỉ đúng nếu tính hiếu chiến của các loài động vật dính chặt vào gen của các con đực. Nếu bạo lực là một sản phẩm của văn hóa và môi trường, việc những con đực biến mất sẽ là vô nghĩa.
Trên thực tế, khi các nhà khoa học quan sát loài bonobo, họ thấy chúng hiếm khi tấn công những cá thể cùng nhóm. Nhưng nếu hai nhóm bonobo gặp nhau, chúng vẫn có thể đánh nhau ác liệt.
Trong The Men, nữ tiểu thuyết gia Sandra Newman cũng đã lường trước được kịch bản ấy. Những người phụ nữ trong thế giới của cô không phải lúc nào cũng chung sống hòa bình như những con cừu. Khi lương thực của họ cạn kiệt, họ vẫn cướp bóc và dùng đến bạo lực.
Vì vậy, khó có thể nói những người phụ nữ trong thế giới riêng của họ sẽ chỉ là những bà nội trợ đảm đang và hiền lành, những người không đủ cứng rắn hay không có tham vọng chính trị cũng như quyền lực để bắt đầu những cuộc chiến.
Cuối cùng, đừng quên là chúng ta không chỉ thay những chiếc ghế tổng thống màu đen thành những chiếc ghế màu hồng. Trong một thế giới chỉ còn lại phụ nữ, họ sẽ phải đảm nhận toàn bộ công việc mà nam giới để lại.
Điều gì sẽ xảy ra khi cứ 100 lính cứu hỏa hiện tại mới có 4 người là phụ nữ? Mùa cháy sẽ trở nên tồi tệ hơn. Trong số tất cả phi công và kỹ sư hàng không trên thế giới chỉ có 5,2% là phụ nữ. Các chuyến bay vì vậy sẽ trở nên hiếm hoi và đắt đỏ hơn.
Các bác sĩ ở trong phòng mổ cũng vậy, cứ 10 người thì mới có 4 người là phụ nữ. Vì vậy có thể bạn sẽ phải chờ đợi lâu hơn cho lịch mổ của mình. Tin tốt là thế giới sẽ có nhiều y tá và điều dưỡng hơn và điều đó tốt cho giai đoạn hậu phẫu của bạn.
Nhưng rào cản lớn nhất mà thế giới phải vượt qua hóa ra lại nằm trong lực lượng nông dân của chúng ta. Cứ 4 nông dân trên Trái Đất hiện giờ thì chỉ có 1 người là phụ nữ. Thực phẩm khi đó sẽ trở nên khan hiếm và đắt đỏ hơn.
Và điều này sẽ dẫn chúng ta trở lại những vụ cướp bóc lương thực trong tiểu thuyết của Newman, khi những nhóm phụ nữ chặn đường những chiếc xe tải đang phân phối thực phẩm.
Nói tóm lại, một thế giới không có đàn ông hoàn toàn khả thi về mặt lý thuyết, dù đó có là hậu quả xảy ra từ cú búng tay của tiến hóa hay Thanos. Trong cả hai kịch bản, những người phụ nữ đều có thể tìm được cách tồn tại và sinh sản trong một thế giới đơn tính.
Họ có thể chuyển từ sinh sản dị tính sang trinh sản trong một quá trình kéo dài hàng triệu năm, hoặc sử dụng các công nghệ hỗ trợ sinh sản để tạo ra con cái mà không cần tới sự đóng góp của tinh trùng hay nam giới.
Nhưng để nói rằng thế giới ấy sẽ tốt đẹp hơn khi không có đàn ông thì chưa chắc.
Tổng hợp
NỔI BẬT TRANG CHỦ
Sự thật từ nghiên cứu khoa học: Chơi trò chơi điện tử có ảnh hưởng bất ngờ đến chỉ số IQ của trẻ em!
Trò chơi điện tử từ lâu đã là chủ đề gây tranh cãi khi nhắc đến ảnh hưởng của chúng đối với trẻ em. Trong khi nhiều ý kiến chỉ trích việc chơi game có thể gây hại cho sự phát triển trí não, thì một nghiên cứu khoa học đã mang đến cái nhìn khác biệt, cho thấy mối liên hệ tích cực giữa việc chơi game và sự gia tăng trí thông minh ở trẻ nhỏ.
Trải nghiệm game trên Mac mini M4 Pro: Cậu bé tí hon bước ra biển lớn gaming