Giải Nobel - Câu chuyện của những người "về nhì"

    Nova,  

    Bên cạnh những nụ cười vinh quang, lịch sử giải thưởng Nobel danh giá còn có cả những câu chuyện đầy ngậm ngùi.

    Mỗi mùa giải Nobel đến lại có thêm những nhà khoa học tài năng nhận được sự vinh danh có một không hai trong cuộc đời. Vậy còn những người không được nhận giải thì sao? Đây là câu hỏi đã khiến Nils Hansson, nhà sử học về y khoa người Đức, trăn trở và thôi thúc ông đi tìm hiểu về họ - những người trượt giải Nobel trong tầm tay. Bên cạnh những nụ cười vinh quang, lịch sử giải thưởng danh giá này còn có cả những câu chuyện đầy ngậm ngùi.

    Trong di chúc của mình, Alfred Nobel viết, giải Nobel sẽ được trao cho những người “đã mang lại lợi ích lớn nhất cho nhân loại”. Theo Hansson, dựa trên lời ủy thác này, quy trình tuyển chọn người để trao giải diễn ra đơn giản đến khó tin: Ủy ban Giải Nobel mời các nhà khoa học và các cá nhân uy tín gửi đề cử để Ủy ban sàng lọc một danh sách rút gọn. Tiếp đến, bốn học viện sẽ nghiên cứu các đề cử chung cuộc và bầu ra người giành chiến thắng trong mỗi hạng mục, cụ thể:

    Viện Hàn lâm Khoa học Hoàng gia Thụy Điển quyết định giải Nobel Vật lý, Hóa học, và Kinh tế

    Viện nghiên cứu y khoa Karolinska quyết định giải Nobel Sinh lý học hay Y học

    Viện Hàn lâm Thụy Điển quyết định giải Nobel Văn học

    Ủy ban Nobel Na Uy quyết định giải Nobel Hòa bình.

    Hansson thực hiện cuộc nghiên cứu của mình tại Học viện Karolinska. Ông đã lục tìm tư liệu về các đề cử, các danh sách rút gọn cùng các đánh giá còn lưu lại từ năm 1965 trở về trước (sau thời điểm này, các thông tin về việc đề cử giải Nobel được giữ kín) và nhận thấy cơ chế bình chọn nghiêm ngặt, cẩn trọng, nhưng đôi khi không tránh khỏi việc gây tranh cãi.

     Nils Hansson, nhà sử học về y khoa người Đức.

    Nils Hansson, nhà sử học về y khoa người Đức.

    Hansson cho biết, vì số lượng giải thưởng hạn chế trong khi các ứng cử viên “người tám lạng, kẻ nửa cân” nên ngoài những tiêu chí đạt, ủy ban trao giải phải cân nhắc những yếu tố như sự độc đáo và tầm ảnh hưởng của phát minh. Và điều đó có thể khiến ngay cả những ứng cử viên xứng đáng nhất cũng phải chịu thiệt thòi.

    Chẳng hạn, phẫu thuật tim là lĩnh vực rất phát triển trong giai đoạn 1940 - 1960; các bác sĩ phẫu thuật hợp tác và đưa ra những cải tiến gần như đồng thời với nhau, gây khó khăn cho việc chỉ định một phát minh mang tính đột phá nhất. Trước rủi ro của việc chọn ra một vài cá nhân để trao một giải thưởng lẽ ra có thể vinh danh rất nhiều người cùng lúc như vậy, Ủy ban Nobel đã chọn giải pháp không bầu ai cả. Qua nghiên cứu của mình, Hansson đưa ra một số lý do chính khiến một học giả tài năng lỗi lạc vẫn có khả năng “trượt” giải Nobel như sau:

    Thiếu người đề cử đủ sức thuyết phục

    Theo Hansson, người đề cử có vai trò giống như người làm nghề tiếp thị vậy. Nếu người ủng hộ bạn không chỉ ra rằng thành tựu của bạn mang tính đột phá và có tầm quan trọng sống còn đối với khoa học thì chẳng có cơ may nào cho bạn.

     Harvey Cushing đang chăm sóc 1 bệnh nhi.

    Harvey Cushing đang chăm sóc 1 bệnh nhi.

    Hansson đưa ra ví dụ về trường hợp những người đã đề cử Harvey Cushing, nhà giải phẫu thần kinh tiên phong trong lĩnh vực phẫu thuật não. Theo ông, lẽ ra họ phải tôn vinh Cushing là “Columbus của tuyến yên” và đồng thời chỉ rõ rằng những tiến bộ mà ông đạt được trong giai đoạn đầu thập niên 1900 là những bước tiến lớn để tìm hiểu phẫu thuật thần kinh. Nhưng họ đã không làm thế, những bản đề cử kém sức thuyết phục có lẽ đã phần nào khiến Cushing trượt mất giải Nobel rất xứng đáng với tầm vóc của mình.

    Tuyến yên hay còn gọi là tuyến não thùy là một tuyến nội tiết có kích thước bằng hạt đậu và trọng lượng 500mg, nằm ở sàn não thất ba, trong hố yên của thân xương bướm. Cấu tạo: dựa vào hình thể, nguồn gốc thai và chức năng, người ta chia tuyến yên làm ba thùy: thùy trước, thuỳ giữa và thuỳ sau.


    Những vướng mắc trong chính trị

    Giải Nobel cũng có thể không được trao do những vấn đề về chính trị nằm ngoài tầm kiểm soát của nhà khoa học. Nhà phẫu thuật người Đức August Bier là một trường hợp như vậy. Ông là người đầu tiên thực hiện gây tê tủy sống vào năm 1898, nhưng những đề cử dành cho ông vào năm 1938 lại trùng với giai đoạn Đức Quốc xã đặt lệnh cấm người Đức nhận giải Nobel. Vì thế, ủy ban trao giải đã bỏ qua tên ông.

     August Bier giảng về phẫu thuật tại một trường đại học.

    August Bier giảng về phẫu thuật tại một trường đại học.

    Tất cả bắt nguồn từ năm 1935, nhà văn Đức Carl von Ossietzky, được trao giải Nobel Hòa bình khi ông đang bị Đức Quốc xã cầm tù vì công bố các thông tin về việc Đức bí mật tái vũ trang. Vào thời điểm đó, giải thưởng này gây ra nhiều tranh cãi và được nhìn nhận như là hành động can thiệp vào công việc chính trị nội bộ của Đức và khiến những người cầm quyền nổi giận.

    Kết quả là hai thành viên ủy ban chấm giải đã từ chức và Hoàng gia Na Uy không dự lễ trao giải, vì áp lực từ chính phủ Na Uy, vốn đang sợ Đức trả đũa. Adolf Hitler giận dữ và cấm Ossietzky cấm nhận giải thưởng. Không chỉ vậy, ông ta còn cấm tất cả người Đức nhận giải nếu được trao giải Nobel trong thời gian cầm quyền của mình.


    Tình trạng bão hòa trong nghiên cứu

    Theo Hansson, phát minh mang tính đột phá là chưa đủ. Để lọt vào danh sách rút gọn, phát minh của bạn phải thực sự nổi bật trong lĩnh vực liên quan. Năm 1944, hai bác sĩ nhi chuyên khoa tim Alfred Blalock và Helen Taussig đã tìm ra phương pháp phẫu thuật để điều trị bệnh methemoglobinaemia, hay còn gọi là chứng “em bé màu xanh”, điều trị trẻ sơ sinh mắc hội chứng da màu xanh tím do khuyết tật ở tim. Hai người được đề cử giải Nobel, nhưng theo Hansson, rốt cuộc họ bị loại đơn giản là vì thời đó có quá nhiều tiến bộ trong lĩnh vực giải phẫu tim.

     Bệnh nhân điển hình mắc Methemoglobinemia.

    Bệnh nhân điển hình mắc Methemoglobinemia.

    Bệnh Methemoglobinemia xảy ra khi nồng độ của một dạng của hemoglobin gọi là methemoglobin trong máu tăng cao. Điều này có thể được gây ra bởi một bệnh di truyền hoặc do tiếp xúc với một loại thuốc hay ma túy. Hemoglobin mang oxy trong máu và được tìm thấy trong các tế bào máu đỏ. Nồng độ methemoglobin tăng cao làm cản trở vận chuyển khí oxy bình thường nên sẽ gây da xanh tái. Triệu chứng của bệnh này là da xanh tím, khó thở, mệt mỏi. Trường hợp nặng gây huyết áp rất thấp, co giật và tử vong. Các loại thuốc phổ biến nhất gây ra chứng rối loạn này là: benzocaine, lidocaine, dapsone, chloroquine, nitrat, nitrit.


    Vấn đề giới tính và chủng tộc

    Thật không may, những định kiến về văn hóa và giới tính cũng có ảnh hưởng tới việc bình xét giải Nobel trong lịch sử. Trong quá trình nghiên cứu, Hansson gặp khá ít ứng cử viên nữ. Theo ông, vai trò của những người vợ hoặc của những cộng tác viên nữ thường bị đánh giá thấp.

     Clara Haber là một trong số nhiều phụ nữ cống hiến cho khoa học nhưng bị giải Nobel bỏ qua.

    Clara Haber là một trong số nhiều phụ nữ cống hiến cho khoa học nhưng bị giải Nobel "bỏ qua".

    Trong số những phụ nữ thầm lặng trong bóng tối của "nhà khoa học lớn", ví dụ như Clara Haber, vợ của Fritz, người đoạt giải Nobel Hóa học năm 1918 vì những công trình của ông về amoniac. Là phụ nữ đầu tiên đỗ bằng tiến sĩ hóa học tại Đại học Breslau, bà đã góp phần vào các công trình của chồng, qua việc dịch các bài viết của ông ấy ra tiếng Anh, trong khi vẫn đóng khung trong cuộc sống gia đình.

    Hansson cũng dẫn ra trường hợp Vivien Thomas, vị bác sĩ phẫu thuật tài ba đã cùng với Blalock và Taussig phát minh và thử nghiệm phương pháp phẫu thuật điều trị chứng “em bé màu xanh”. Theo Hansson, Thomas là một người da đen có những đóng góp to lớn vào quá trình này, song “tên ông lại không được Ủy ban Nobel nhắc đến dù chỉ một lần”.


    Phát minh vi phạm những điều được coi là “cấm kị”

    Hansson nhận xét: “Có thể coi lịch sử giải Nobel là lịch sử của những cấm kị về y học”, và những công trình gây tranh cãi thường bị ủy ban trao giải “ngó lơ”. Chẳng hạn, năm 1903, Ferdinand Sauerbruch đã phá vỡ lệnh cấm bất thành văn việc phẫu thuật tim, vốn bị các bác sĩ thời bấy giờ coi là quá rủi ro. Khi đó, Sauerbruch đã tạo ra phòng áp suất - có khả năng ngăn ngừa biến chứng bằng cách nâng hoặc giảm áp suất không khí - cho phép các bác sĩ thực hiện phẫu thuật lồng ngực mở. Cho dù nhận được tới hơn 60 đề cử, song tên ông vẫn bị gạch khỏi danh sách trao giải.

     Ferdinand Sauerbruch.

    Ferdinand Sauerbruch.

    Mặc dù vậy, công trình của ông đã được chú ý nhiều hơn kể từ ca phẫu thuật tim hở có sử dụng máy tuần hoàn ngoài cơ thể được thực hiện bởi 2 bác sẽ Clarence W. Leillehei và John Lewis tại Minnesota (Hoa Kỳ) vào tháng 9/1952, ngành phẫu thuật tim mạch lúc đó đã có những bước phát triển rất nhanh. Tại Hoa Kỳ, mỗi ngày có hàng ngàn ca mổ tim được thực hiện. Theo con số thống kê chính thức, chỉ năm 2009, các nhà phẫu thuật tim mạch đã thực hiện 416 nghìn trường hợp bắc cầu động mạch vành. Trong năm 2010, dù thiếu nguồn tạng, cũng đã có 2.300 trường hợp ghép tim được phẫu thuật thành công.


    Đi trước thời đại quá nhiều

     Những chiếc máy tập thể dục đầu tiên do Gustav Zander chế tạo.

    Những chiếc máy tập thể dục đầu tiên do Gustav Zander chế tạo.

    Theo Hansson, Gustav Zander là “cha đẻ của các phòng tập thể hình hiện đại”. Ông là người đầu tiên chế tạo ra các loại máy có tay quay và quả tạ để tập luyện thể chất từ những năm 1860. Nhưng vì lý do nào đó mà những phát minh đột phá của ông lại phải chờ tới cuối thập niên 1960 mới trở nên thịnh hành, khi những chiếc máy của hãng Nautilus tương tự như máy của Zander ra đời. Vì có tầm nhìn quá xa, Zander đã bị chính thời đại mình lãng quên và ông cũng chưa bao giờ được giải Nobel.


    Chưa đủ "tuổi" để nhận giải

    Thật vậy, nếu bạn tìm ra một đột phá vĩ đại khi vẫn còn là nghiên cứu sinh hoặc sinh viên thì cơ hội nhận giải Nobel gần như bằng không. Đó là trường hợp của nhà vật lý thiên văn Jocelyn Bell Burnell khi bà phát hiện những tín hiệu cụ thể và liên tục phát ra từ thứ gì đó trong không gian mà sau này được gọi tên là pulsar phát ra từ các ngôi sao neutron, đây là giai đoạn bà đang là nghiên cứu sinh chuẩn bị cho quá trình bước lên học vị tiến sỹ vào năm 1967.

     Jocelyn Bell Burnell.

    Jocelyn Bell Burnell.

    Khám phá này nhanh chóng được thừa nhận cùng với tên của Antony Hewish, giáo viên hướng dẫn và giám sát của Jocelyn, trong khi Burnell mới là người độc lập nghiên cứu. Về sau, Hewish vẫn được trao giải Nobel năm 1974 cùng với nhà thiên văn học Martin Ryle dành cho khám phá này. Thậm chí, việc Jocelyn có được đề cử hay không thì phải đến tận năm 2024 chúng ta mới biết do kết quả đề cử Nobel luôn được giữ bí mật trong vòng 50 năm.


    Giải Nobel không dành cho người đã khuất

    Đó là câu chuyện thuộc về Rosalind Franklin, nhà lý sinh học và tinh thể học tia X có những đóng góp quan trọng cho sự hiểu biết về cấu trúc phân tử của ADN, ARN, virus, than đá, và than chì. Ở tuổi 33, Rosalind là người đã tìm ra hình dạng của ADN bao gồm 2 chuỗi. Sau khi sử dụng máy tia X tân tiến, Rosalind có được những phim ảnh của ADN dưới dạng B. Đồng nghiệp của Rosalind là Maurice Wilkins đã cung cấp công trình nghiên cứu và những bức ảnh chụp được đưa cho James Watson và Francis Crick, nhờ đó hai nhà khoa học này có thể xây dựng cấu trúc AND vào năm 1953 và nhận được giải Nobel. Cái tên Rosalind Franklin thậm chí không được nhắc đến một lần trong bài diễn văn khi nhận giải thưởng.

     Rosalind Franklin.

    Rosalind Franklin.

    Trong một bức thư gửi nhà di truyền học Pháp Jacques Monod (người đoạt giải Nobel y học vào năm 1965 vào ngày 31/12/1961, Francis Crick đã "nhìn nhận tầm quan trọng" trong các nghiên cứu của bà Rosalind Franklin, để xác định "một số đặc tính" của cấu trúc ADN. Đến lúc này, giới khoa học mới có cái nhìn khác dành cho bà và không ít người đã công nhận bà mới là người xứng đáng bước lên bục vinh quang tại Stockholm. Mặc dù vậy, bà Rosalind Franklin không thể nào nhận được giải Nobel vào năm 1962, vì bà đã qua đời vào năm 1958, trong khi giải Nobel chưa bao giờ được trao cho một người quá cố, nhưng bà không phải là người duy nhất rơi vào trường hợp này.


    Không nhận được giải vì quy định không "rõ ràng"

    Oswald Avery là nhà vật lý học, nhà vi khuẩn học người Mỹ. Ông là nhà khoa học tiên phong trong lĩnh vực sinh học phân tử và miễn dịch học. Đặc biệt là phát minh nổi tiếng năm 1944 cùng với Colin MacLeod và Maclyn McCarty, coi ADN là vật liệu để tạo ra gen và nhiễm sắc thể, nhưng đáng tiếc ông lại bị bỏ quên, không được trao giải Nobel cho các thành tựu nghiên cứu của mình.

     Oswald Avery.

    Oswald Avery.

    Trường hợp Oswald Avery không được trao giải Nobel Y học được xem là “hy hữu” bị “đánh cắp giải” hoặc nhầm lẫn “ cố ý” của Ủy ban trao giải, bởi công lao của Oswald Avery đã quá rõ, người đầu tiên khám phá và định nghĩa ADN là một vật liệu di truyền. Oswald công bố khám phá này sau năm 1944 và trước đó, từ năm 1932- 1942 ông đã được tiến cử nhiều lần nhưng đều bị bỏ qua, giới khoa học chưa chịu nhìn nhận thuyết của ông vì họ không nghĩ ADN chỉ đơn giản có 4 mẫu tự lại có chức năng làm vật liệu di truyền, thay vào đó họ lại cho rằng protein mới chính là vật liệu di truyền đích thực. Một phần thiếu sót và nhầm lẫn khác được người ta vin vào là dựa trên ngôn từ trong di chúc do Alfred Bernhard Nobel để lại.

    Theo đó, Viện nghiên cứu y khoa Karolinska - nơi xét danh hiệu giải Nobel Y học và Ủy ban Nobel lại dựa tiêu chí như "discovery" (khám phá hay phát hiện)“greatest benefit on mandkind” (lợi ích cao nhất cho nhân loại) nêu trong di chúc nên cuối cùng đã không có một tiêu chí nào rõ ràng. Đây là những định nghĩa rất khó áp dụng trong ngành y. Ví dụ, đối với khoa học lâm sàng thì từ “khám phá” hoặc “phát hiện” có thể hiểu thế nào cũng được, chính điều này mà những người có phát minh lớn như Oswald Avery đã bị bỏ qua, sau này khi cộng đồng khoa học kịp nhận ra ý tưởng của Oswald thì ông đã qua đời mà theo quy định thì giải Nobel lại không thể trao cho những người đã khuất.


    Vậy đấy, lúc này sẽ không ít người đặt câu hỏi: "Nếu có quá nhiều nhà khoa học vĩ đại không nhận được giải thưởng xứng đáng với họ như thế, vậy thì có thể suy ra rằng một số người được giải là không xứng đáng hay không?" Theo Hansson thì không nhất thiết như vậy. Ông lấy ví dụ về trường hợp của Antonio Egas Moniz, người giành giải Nobel năm 1949 nhờ những cải tiến của ông trong lĩnh vực phẫu thuật thùy não, một quy trình điều trị tâm thần được coi là tiến bộ lớn trong giai đoạn 1930 - 1940. Hansson cho biết: “Vào thời đó, các tạp chí lớn đều đánh giá cao thành tựu của ông ấy. Nó được coi là nghiên cứu mang tính đột phá”. Nhưng quan niệm ngày nay đã thay đổi và giới chuyên gia tâm thần học đã gần như "bài trừ" liệu pháp phẫu thuật thùy não. Vậy có thể qua đó mà nói rằng Moniz không xứng đáng nhận giải thưởng hay không?

    Theo Hansson, lịch sử giải Nobel có thể có nhiều câu chuyện đáng tiếc, song ủy ban trao giải thường ít khi trao nhầm người. Ông cũng chỉ ra rằng quy trình xét giải không phải lúc nào cũng đi theo phương án an toàn hay thiên vị những người nổi tiếng. Một minh chứng là trường hợp Werner Forssmann, người mở đường cho phương pháp chuẩn đoán và điều trị tim mạch trong y học ngày nay. Vị bác sĩ này sinh sống ở một vùng quê, không có vị trí trong trường đại học nào và ống thông tim của ông cũng chưa từng được biết đến rộng rãi - nhưng ông vẫn được trao giải Nobel Y học vào năm 1956.

    Tham khảo Smithsonianmag, ABC

    Tin cùng chuyên mục
    Xem theo ngày

    NỔI BẬT TRANG CHỦ